tacoma
Vài dòng giới thiệu về nhà thơ Hoa Văn
Vào khoảng giữa tháng 10/1954, tôi đã gặp Thiếu Úy NGÔ VĂN HOÀ (nhà thơ Hoa Văn) tại Tiểu Đoàn 55 Việt Nam (BVN) từ Bắc, triệt thối vào Nam sau Hiệp Định Genève. Vừa mới triệt thối vào Nam, Tiểu Đoàn 55 Việt Nam, được phối trí đóng quân tại Phân Khu Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa.
Những năm tháng ấy, tôi đang phục vụ tại Phân Khu Diên Khánh -Khánh Hòa, đồn trú tại Thành - Diên Khánh, Khánh Hòa; nơi đó chúng tôi quen nhau. Cũng vào những ngày tháng này nhà thơ Hoa Văn còn làm thơ với bút danh Anh Hoa.
- Năm 1964, nhà thơ Hoa Văn ra mắt tập thơ Đường Em Hoa Nở.
- Năm 1965, xuất bản tập Thơ Anh Hoa.
- Năm 1966, nhà thơ Hoa Văn nổi tiếng trên Văn Đàn Việt Nam với tập thơ Lục Bát và Mưa Cao Nguyên.
... Chúng tôi mất liên lạc với nhau từ 1966 - 2017 (51) năm sau); chúng tôi lại gặp nhau trên Diễn Đàn Văn Nghệ Tự Do tại Hoa Kỳ.
Chúng tôi nối lại tình bạn xa xưa và tôi được biết nhà thơ Hoa Văn đã ra mắt thêm 10 tập thơ nữa, mang bút danh mới là HOA VĂN từ khi qua định cư tại Hoa Kỳ năm 1993. Như vậy, nhà thơ đã in ấn tổng cộng 14 tập thơ trong 52 năm...
Hai năm gần đây, nhà thơ Hoa Văn đã tặng tôi 2 thi tập:
- Dòng Thơ Cho Em
- Hương Tình Hoài Điệp.
Sau mỗi lần đọc hai tập thơ tặng này, tôi vì cảm xúc nên đã viết về Hoa Văn qua hai bài cảm nhận như sau:
- Thơ trong buồng tim Hoa Văn
Và
- Thu trong buồng tim nhà thơ Hoa Văn...
duy xuyên
tacoma
24/03/18
Tôi có cái hân hạnh được Nhà Thơ Niên Trưởng Hoa Văn gởi tặng Tuyển Tập Thơ HƯƠNG TÌNH HOÀI ĐIỆP.
Tuyển Tập dày 200 trang, kể cả hình bìa.
Tuyển Tập do tác giả đánh máy & sửa lỗi chánh tả - Cội Nguồn xuất bản năm 2018
Trình bày & thực hiện bản in: Song Nhị.
Hình thức: Tuyển tập được trình bày trang nhã, đẹp mắt.
* Hình bìa: Chân Dung Hương Hoài Điệp: Thật tươi mát, trẻ đẹp và Thánh Thiện. Khuôn mặt Hương Hoài Điệp với cặp kính trắng thật trí thức. Thanh cao. Mắt nhìn hun hút như vừa gởi gấm cho ai đó niềm tin yêu vời vợi.
Nội dung: 76 bài thơ tình, gởi cho người yêu trong mộng.
Người yêu trong mộng của nhà thơ Hoa Văn với tên rất mỹ miều Hương Hoài Điệp (THUCUC TRỊNH) - Chân dung ở hình bìa của Tuyển Tập
Chất thơ: Lai láng với một tâm hồn rất lãng mạn.
Hình bìa cuối:
- Giới thiệu THƠ ĐÃ IN từ năm 1964 đến năm 2018.
Qua 76 bài thơ tình, chỉ viết cho một Người (Hương Hoài Điệp) qua nhiều thể loại thơ như :
- Thơ Lục Bát
- Thơ Tứ Tuyệt
- Thơ Tám Chữ
- Thơ Ngũ Ngôn
- Thơ bảy chữ
Trong những trang đầu có LỜI NGỎ của nhà thơ Hoa Văn.
Trong LỜI NGỎ, tôi chú ý nhất ở đoạn này:
"... Hoa Văn hy vọng tiếp tục sáng tác những vần thơ góp phần làm đẹp cuộc đời.
Trên bước đường đi tới, Hoa Văn nghĩ nàng thơ có thể còn tạo niềm cảm xúc cho tác giả sáng tác và nhìn cuộc đời đẹp tựa ánh sao đêm:"
* Suy nghĩ của người viết bài này:
Nàng thơ mà nhà thơ Hoa Văn đã đề cập ở đây là Hương Hoài Điệp cũng là THUCÚC TRINH) tên của hai loài hoa tuyệt đẹp.
Hoa cúc có nhiều loại nhưng quý nhất, thanh cao nhất vẫn là Hoa Cúc vàng và Hoa Cúc tím.
Cúc thường nở đầy hoa vào mùa Thu. Có những vùng, những nơi, cúc lại nở vào mùa xuân và có những vùng khác, có nơi quanh năm đều có cúc nở.
* Còn hoa Điệp, ở quê tôi (Nha Trang) còn gọi là hoa Phượng.
Phượng còn có Phượng Đỏ, Phượng Tím, Phượng Hồng...Hoa này còn gọi là Huyết Phượng.
"Trên đường về huyết Phượng nở thành bông
Và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt"
(Có thể là của Hà Mai Anh?)
Cả hai loài hoa này rất quý, nhiều người rất yêu thích.)
* Ở trang 9 Tâm Tình Hương Hoài Điệp:
"Tôi diễm phúc làm nguồn cảm tác cho thi phẩm của anh Hoa Văn, nhưng tôi không thể chữa lành vết đau và nỗi cô đơn anh mang, vì chúng tôi không duyên phận bên nhau."
*Ở trang 13:
Hương Tình Hoài Điệp Mượt Mà Đằm Thắm Và Tha Thiết của SONG NHỊ
*Ở trang 16:
Hương Tình Hoài Điệp Khi Nàng Thơ Và Thi Sĩ Thăng Hoa Cùng Vần Thơ của nhà thơ Trần Minh Hiền
"Ở vào lúc buổi chiều lấp lửng hoàng hôn, tác gỉa thi phẩm mới nhất"Hương Tình Hoài Điệp" vẫn tâm hồn dào dạt tuổi...Thơ. Thơ Không Có Tuổi! Nhà thơ vẫn "Xuân tân đáo tử ti phương tận"!!. Hẳn là có một động cơ nào đó, một nguồn cảm xúc nào đó, một đối tượng nào đó...khiến trái tim thi sĩ rộn ràng rung động trước thế sự, cảnh vật và tình yêu...
Khi bạn cầm tập thơ trên tay hẳn nhiên bạn biết nội dung là gì và tác giả đang thầm thì với ai."
Thật vậy, thơ Hoa Văn không có tuổi.
Với tuổi đời lấp lửng (chữ nghĩa của nhà thơ, nhà giáo dục Trần Minh Hiền) mà nhà thơ vẫn còn nôn nao với những áng thơ tình,
Hoa Văn đã viết:
"Đã gặp nhau nhưng tình khó đi tới
Chỉ như là một giấc mộng đêm say'
Trong cõi mơ có hình bóng em đầy
Khi tỉnh dậy bốn phương trời mây trắng.'
Hoa Văn
* Ngoài 76 bài thơ của Hoa Văn, ở phần cuối Tuyển Tập có PHẦN CẢM NHẬN của VĂN THI SĨ
- Duy Xuyên - Trang 189
"Thơ Hoa Văn trong tuyển tập Dòng Thơ Cho Em thật vô cùng lãng mạn, triền miên trong nỗi nhớ, khắc khoải đợi chờ như tâm hồn thi sĩ thênh thang cuốn theo những đám mây hồng rồi vỡ vụn đâu đó đọng lại thành rêu xanh.
Thơ Hoa Văn đưa ta đến những vườn hoa Cúc. có dấu chân chim của người yêu trong thi ca vô cùng lãng mạn, nhưng nhà thơ Hoa Văn đã biết dùng lý trí để kiềm hãm những cảm xúc tuôn trào như sóng vỗ tràn bờ rồi dừng lại trong khoảnh khắc để cho ta trở về với thi ca cổ điển; mà nhà thơ Hoa Văn luôn là người đại diện cho Văn Học Lãng Mạn và luôn có hoài niệm cổ điển ..."
- Nhà thơ Hồ Công Tâm - Trang 190
- Nhà thơ Nguyễn Phú Long - Trang 191
- Nhà thơ Trần Quốc Bảo - 193
"Thoáng hương hoài điệp chơi vơi
Hư hư thực thực ngàn lời thơ duyên"
- Nhà thơ Vĩnh Hồ - 194
"Thơ Hoa Văn ... rất đẹp - một khu vườn mượt mà óng ả đầy hoa vàng cúc tím, một dòng sông êm đềm hư ảo khói sương - phảng phất tư tưởng triết lý nhân sinh, man mác hương Thiền - lơ lửng giữa thực và mộng...
- Nhà thơ Trần Minh Hiền - 195.
"Thi sĩ Hoa Văn viết giùm viết hộ cho nàng thơ của ông, viết giúp tâm sự sâu kín tận đấy hồn nàng và cũng của chính ông."
Nội Dung Chính:
Tôi đã đọc xuyên suốt qua 76 bài thơ của Nhà Thơ Hoa Văn với nỗi xúc động bùi ngùi, triền miên, tưởng chừng như con tim cũng cùng đi hoang với nhà thơ đang đi hoang về bến lạ, tìm về một tình yêu vừa mơ hồ vừa hiện thực; với ý niệm của vô thường ... có, có ...không không, không không ...có có với nỗi nhớ trong tiềm thức viển vông, mà hiện thực là đam mê, thác loạn mà đời mải miết còn mơ với mộng và còn gì hơn người mộng (THU CÚC) vẫn cứ mãi trong Thơ.
Tôi muốn viết ra đây Thu trong tiềm thức buông thả của một tình yêu có thực trong thơ văn nhưng lại mơ hồ trong ý niệm... đến tận cùng của vô ngã. Những
hiện thực trong những cơn mơ dài đưa ta đến với những tình tiết trăng, hoa, lá, nắng và tâm hồn xanh xao của tác giả nhà thơ Hoa Văn, cột trụ của Thi Ca và chỗ đứng của nhà thơ trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật của cả Miền Nam từ năm 1954.
Tại Hải Ngoại (Hoa Kỳ) thơ Hoa Văn làm độc gỉa xôn xao với Thi Tập Thơ Và Thời Gian, năm 2002 và cho đến năm nay 2018:
Tuyển Tập Hương Tình Hoài Điệp lại ra mắt độc giả với dòng thơ Tình, thật lãng mạn.
Theo tôi nghĩ:
Từ khi tên em là Điệp, dòng thơ anh đã vào đời...
Và từ ngày có Điệp
Thơ anh lại triền miên
Từ ngày có Thu Cúc (Hương Hoài Điệp)
Thơ anh như lãng du... thơ anh tha thiết hơn bao giờ và tình thơ, ý thơ lại mang một sắc thái thực thực hư hư, bềnh bồng như gió thoảng, lững lờ như mây tím giăng...
Tôi thích nhất là tiếng Thu trong thơ Hoa Văn:
'Thu Cúc ơi anh chẳng thiết tha tìm
Đã có em bên cuộc đời đậm nhạt'
Phải rồi, đã có Cúc, có Điệp thì tất cả những bóng hồng khác chỉ là ảo ảnh trong bước đường làm lính, lên thác xuống ghềnh cũng như gió thoảng mây bay. Giờ chỉ còn là Cúc là Điệp mà tình yêu là Thánh Thiện.
Thật vậy trong LỜI NGỎ, Hoa Văn đã viết:
"Hoa Văn quen biết nàng (Hương Hoài Điệp - người viết bài này ghi thêm) qua lời thơ nốt nhạc một thời gian ngắn, nhờ tình nhạc ý thơ đưa Hoa Văn đến cõi mơ và yêu thương nàng từ đó."
Tôi thật vô cùng ngạc nhiên vì chỉ quen nhau trong một thời gian thật ngắn 18 tháng mà Hoa Văn đã viết đến 178 bài thơ tình mà chỉ viết riêng cho Hương Hoài Điệp, thì quả thật nhà thơ Hoa Văn là một thiên tài từ trước đến giờ mà tôi được biết trong phạm trù nhỏ hẹp của tôi.
Có những người đàn ông, yêu một phụ nữ có thể còn da diết hơn Hoa Văn nhưng chưa bao giờ làm được một vần thơ nào để gởi gắm tình của mình với người mình yêu, trong suốt cả một đường tình 50-60 năm.
Đằng này Hoa Văn đã tặng cho nàng thơ của mình đến 178 bài thơ, thì quả là Hương Hoài Điệp nhận được một hạnh phúc to lớn quá đỗi.
Chúng ta thử đọc 2 câu thơ dưới đây, để biết Hoa Văn đã trân quý Người Yêu của mình như thế nào:
'Tâm hồn anh bay bổng tiếng thơ say
Em Thu Cúc người yêu trong mộng đẹp'
( Bài 23. Triệu Đóa Hoa Hồng
tr.76)
Rồi đến một ngày nào đó, nhà thơ mới thấy đời chưa có nhau nhưng yêu như chưa bao giờ được yêu, và ngỡ ngàng nghĩ đến thân phận cho đến ngày nào sẽ có nhau:
'Buồn nào sao bỗng rưng rưng
Hương trầm bát ngát nghe lòng đã Thu'
(28. Em là tất cả - trang 88)
Và:
'Thu nào cho nở nụ cười
Mênh mang một nỗi buồn rơi lá vàng'
'Mùa Thu mùa của phân vân
Mà tình em lại vô ngần sớm hôm'
( trang 91 ).
Và khi thấy tình mình vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi một mình.
'Trời đã vào Thu rồi đó em
Gió bâng khuâng thổi nhẹ êm đềm
Thu về bên lối đời loi lẻ
Lại nhớ về em lạnh nỗi niềm
Thu đến tình nào cho ấm êm
Dẫu vàng hoa cúc nở trong tim
Tìm em anh biết tìm đâu nhỉ
Thu có về sao nguyệt vẫn chìm'
Chao ôi!
Thu Cúc - Anh đang buồn đứng cúi mặt
Vai Cúc gầy!
Mắt biếc!
Tóc xõa trong tim anh
Sao tia nắng
Không phải là ta - em nhỉ?
Nắng rêu xanh!
Ai mải miết chờ em
Mùa Thu đến!
Máu tim ta chợt thức
Hình hài em
Giọt nắng - vẫn còn xa
Duy Xuyên
12/03/18
Phải rồi nhà thơ Hoa Văn đã nghẹn ngào gọi tên Thu Cúc!
À, tôi biết rồi, tiếng gọi thất thanh của Hoa Văn là nỗi nhớ triền miên. Nhà thơ hối hả tìm về trong mơ, để tìm bóng dáng Hương Hoài Điệp, đã thôi thúc nhà thơ gieo vần, với áng thơ tuyệt tác của nhà thơ viết cho ai? Chẳng phải là Hương Hoài Điệp hay sao?
Tuy Thu Cúc đã quá xa nhưng mái tóc, ánh mắt, răng môi nàng vẫn còn cuốn hút trong khe tim và bóng dáng nàng vẫn như những hoa cúc hồng, hương hoa ngào ngạt đang lưu thông trong huyết quản nhà thơ.
Như vậy, lý do mà nhà thơ Hoa Văn như con tằm nhả tơ, để viết ra những tâm tình của nhà thơ chính là nỗi nhớ triền miên, nỗi nhớ của một đời người, đang đi tìm một bóng hình yêu dấu.
Rồi bỗng dưng đêm nay có mưa đêm thơm mùi hoa cúc và cơn mưa thật lạ, đổ về làm xa nhau và biết đến bao giờ Hoa Văn mới được gặpThu Cúc đây!
Anh hỏi em! Bao giờ được gặp
Em trả lời, mai mốt anh ơi!
Xin trả lời! Mai mốt anh ơi!
"Thu đến thu đi cho ý thơ
Bên này bên ấy mơ và mơ'
(31. Mùa Thu không em - trang
92 - 93)
'Viết gì thơ hết buồn hiu hắt
Thu đã về rồi dạ ngẩn ngơ'
'Thu vàng hoa cúc người yêu dấu
Trời đất vào thu lưu luyến hơn
'Giai điệu mùa Thu chút mộng riêng
Trời thơ cùng nở nắng tơ mềm
Ân tình còn lại mang màu nhớ
Thu đến mà anh không có em!!! (31.
Mùa Thu không em - trag 92)
'Gió cũng chưa đầy chưa lá rụng
Vào Thu chăm chút hắt hiu thơ'
Mùa Thu vừa đến mùa Thu đến
Buông chiếc lá thơ thả xuồng đời'
(36. Mùa Thu và thơ - Trang 102)
'Thu đến đến cho người nghệ sĩ
Tâm hồn mơ mộng chút buồn thu
Riêng anh thu với hồn thơ trắng
Tự viết cho anh giấc mộng chờ'
Thu ơi đừng để anh quên đường'
Phải rồi:
Mái tóc dài ai vào đời vội vã
Nghe xôn xao tim vỡ tự hồi nào
Duy Xuyêm
3/18
'Tơ biếc bên đời tơ biếc mãi
Vì tình ngây ngất hỡi thu ơi'
'Thu mãi cho tình thu cỏ lụa
Lòng anh chiu chắt tháng ngày qua'
(36. Mùa Thu và Thơ -Trang 104)
Thật hay hư sao thấy thật hững hờ
Tuổi đã tám mươi vẫn còn đầy hy vọng
Mong một ngày được sống thật với ước mơ...
Duy Xuyên
3/18
Mùa Thu lá rụng mùa Thu sang
Đừng gọi tình anh sầu ngỡ ngàng'
'Đón Thu sang từng giây phút mơ màng'
Phải chi nhà thơ có được đôi cánh huyền thoại, bay từ Richmond thật nhanh về nơi nàng thơ đang cư ngụ, xa cách trùng trùng diệu vợi, rồi len lén đậu thật nhẹ, lên tóc nàng thơ, như cánh chim trời từ đâu bay lạc đến. Hoa Văn sẽ nói nhỏ với Thu Cúc, những gì nhà thơ chưa nói được của một chiều hư ảo, em đã hẹn nhưng rồi không đến.
Nhớ thuở ấy cao sang ngày tháng đợi'
'Lòng biển gió thênh thang còn mong mỏi
Dẫu tình xa gọi mãi bóng thu về'
(48. Trăng uá - Trang 122)
Hoa Văn cũng sẽ thăm hỏi em vài giây cho đỡ nhớ thương, rồi lặng lẽ ráp đôi cánh thiên thần ấy, vội vã ngược dòng thời gian nghìn trùng thương nhớ, ngậm ngùi, trả lại em mái tóc màu hạt dẻ, trả lại em khuôn mặt Thánh Thiện, đầy ấp thanh cao, lưu luyến không nỡ trở về Richmond, để còn kịp mhâm nhi ly cà phê đắng, mà sương khuya còn lấp lánh, còn đọng lại trên đôi cánh chim hải hồ, trong chuyến hành trình vời vợi ấy, rồi bỡ ngỡ biết mình chợt nhớ đến ánh mắt em chờn vờn trong giấc ngủ miệt mài cô đơn.
'Anh mùa Thu nỗi đau đời còn lại
Đợi em về mỗi cung bực hư không'
Tôi biết chưa bao giờ Hoa Văn thích ngồi đợi Thu Về như bây giờ.
Hình dáng nàng như thiên sứ, như những hạt nắng tràn về tim. Cúc về tràn ngập niềm vui. Nắng liếm gót chân nàng, nắng hôn nhè nhẹ lên những cành hoa Cúc.
Nắng buồn nên Điệp cũng bâng khuâng. Nắng đi Cúc muộn phiền. Lời thì thầm bên tai khiến Hoài Điệp thẩn thờ...
'Tình dù có mỏng như sương
Theo thu mấy bước đoạn trường ngược xuôi
Thu đi tím lịm chân trời
Bâng khuâng từng mỗi sầu đời đi qua'
'Thu này còn lắm gió mùa
Ngập ngừng chân bước lũy thừa còn vui'
Lời ai ngào ngọt âm rời
Mùa Thu còn chút ngậm ngùi trong mơ'
Từ những mảng hoài niệm trong mơ của những lần mộng du tình cờ bắt gặp đã đưa ký ức đan lẫn vào nhau, cho nhà thơ cái cảm giác êm ả, đến bây giờ vẫn còn hiện về trong tiềm thức yên nghỉ, rồi nhạt nhoà trong hư vô... đều tan biến vì hàng vạn kỷ niệm dồn dập về một loài hoa không dứt. Nó cuộn lấy tâm hồn Hoa Văn rồi vỡ tan ra thành giọt nắng lưu ly, thăm thẳm, trong đó nhà thơ nghe được tiếng thì thầm của nàng THƠ như ánh sao trời, hình hài nàng đang nhấp nhô trong những ngăn tim nhà thơ đang lang thang tìm một loài hoa đẹp như THIÊN SỨ khắp nẻo thương ngách nhớ!
'Thu ươm nắng chút tình chia
Nghìn Thu còn lại thiết thê dấu người'
'Mơ Thu xa tận bên trời
Tình xưa vàng võ ngậm ngùi xuyến xao'
(49. Nghìn Thu còn lại - trang 124)
'Dù Xuân còn hay Hạ
Yêu Thu vàng thiết tha'
'Anh đón mùa Thu ngỡ đón em
Hồn thơ lạc ý biết đâu tìm'
Nắng chiều đã đưa mùi HƯƠNG của một LOÀI HOA ĐIỆP đã đưa em đi thật xa...lòng ai xao xuyến khi chiều về, bồn chồn muốn biết, bây giờ em ra sao?
'Anh mến thu vàng mộng mị thu
Trăng tàn mấy độ chẳng tàn mơ'
'Thu đến lòng anh vẫn nhuốm buồn
Chút tình văn nghệ giấc mơ son'
'Anh mong Thu đến chờ hoa nở
Giữa chốn nhân gian gió bụi hồng'
Phải đó, giờ đây những ước mơ chỉ còn là bóng dáng mờ phai, nhạt nhòa của hoài niệm, mộng mơ vẫn mãi trốn chạy. Những bước chân nhỏ xíu như chân chim sẽ không bao giờ còn bắt gặp, dù trong một giấc ngủ thật đơn côi trong cảnh đời loi lẻ.
'Bốn phương một hướng tình cô quạnh
Gió buốt trời Thu lạnh nỗi sầu'
'Trăng rơi sao rụng đêm tiềm thức
Hát tiếng Thu xa lúc bổng trầm'
'Hình như trời đất mới vào Thu
Tôi bỗng nghe qua chữ tạ từ'
'Tôi vẫn yêu Thu tự thuở nào
Từ khi trời đất có trăng sao'
'Mãi mãi yêu Thu quý cuộc đời
Quý tình dâu bể quý tình đôi'
'Thu Đông buồn man mác
Còn đâu tuổi huy hoàng'
(53. Mùa Đông buồn - Trang 132)
'Mùa Thu gió cuối ngày heo hút
Chẳng xạc xào thêm chẳng lá vàng'
(54)
Thu vàng rồi đó! Anh tưởng đã mất em ở góc biển chân trời nào rồi! Mình chưa gặp nhau bao giờ nhưng anh đã thề non hẹn biển như anh đã có em hồi mình chưa quen. Hay định mệnh đã run rủi cho anh quen em, dường như có phép lạ nhiệm mầu vô hình, khi mình chưa biết mặt nhau, mà tình anh đã len lén lên ngôi. Có phải vậy không NÀNG THƠ của tôi?
Và tình tôi và thơ tôi sẽ chỉ viết riêng cho em trong ngàn kiếp mai sau...
Duy Xuyên
Tacoma
Ngày 14 tháng 3 năm 2018.
"Kính đa tạ Niên Trưởng Hoa Văn đã tặng tôi Tuyển Tập thơ Hương Tình Hoài Điệp"
Tặng Hoa Văn bài thơ Phiến Buồn
Em chưa là phiến đá
Tình sầu sao bơ vơ
Trăng buồn rơi trên lá
Em chưa nói lời nào
Chờ em trên phiến đá
Tình sầu thấy bơ vơ
Mạch sầu rơi trên đá
Kiếp buồn vẫn lang thang
Nhớ em tìm phiến đá
Tình mình vẫn đơn côi
Tìm trăng trên chiếc lá
Dáng ai mờ nhạt phai
duy xuyên
Tacoma
Nhớ Mẹ
Mẹ ơi!
Thường thường mỗi khi ngày Lễ Vu Lan hay Mother’s Day tràn về, Mùa Nhớ Thương Mẹ, sắp đến, là mỗi lần làm cho con buồn bã, nghĩ vơ nghĩ vẩn, lo sợ viển vông, bởi những ám ảnh ưu phiền, ngày con mất Mẹ trong quá khứ, nó vẫn còn lẩn tha lẩn thẩn đâu đây, để đày đọa tâm tư con lịm chết.
Con đã mất Mẹ trong những ngày gần đến Lễ Vu Lan, của một năm xưa, rất xa mà lúc nào con cũng tưởng như rất gần. Thật gần! Mới đó mà con đã xa Mẹ lâu lắm rồi!
Nhớ lại những ngày xa xưa, gần ngày Lễ Vu Lan, thành phố Tacoma vẫn có những cơn mưa ngâu bất chợt kéo về, cũng như trong tâm hồn con chợt có những nỗi buồn bất thường. Đêm đêm, xuyên qua kẽ hở của tâm hồn, con tìm đôi mắt Mẹ trong tĩnh lặng, nhắm mắt lại, để con được giữ nguyên vẹn hình ảnh Mẹ khỏi xóa nhòa trong trí nhớ, và đêm nay, trong giấc ngủ chờn vờn, hồn con chết lịm trong cơn mê mất Mẹ!
Con không thể nào ngủ được trong đêm nay, dường như có cái gì đó bất ổn trong lòng con. Con cố mím chặt môi, nghe mằn mặn ở đầu lưỡi, nước mắt con đang lưng tròng, chảy dài trên gò má gầy vì tháng năm ưu phiền, nhớ thương Mẹ già trong vô vọng, thương nhớ Mẹ triền miên.
Khi Mẹ còn, con vẫn thường ngồi trước tách cà phê pha thật đậm, nhâm nhi từng giọt đắng trên đầu luỡi, thả hồn trong điệu kinh nguyện cầu của Mẹ. Tiếng Mẹ trước bàn thờ gia tiên đều đều, dạt dào lời nguyện cầu của Mẹ … “Nam Mô A Di Đà Phật!” Lời nguyện cầu ngàn đời bất diệt, mà âm thanh như chìm xuống vẫn còn lắng sâu trong âm ỷ, đã lâu lắm rồi mà nay vẫn còn lảng vảng đâu đây.
Nỗi buồn mỗi khi gần đến Ngày Lễ Hội Của Mẹ là nỗi buồn len lén vào lòng. Càng nhớ về Người Mẹ thân yêu của mình, con càng nhớ thương những lần Lễ Hội trước.
Vu Lan nào Mẹ cũng cùng đi với con về chùa cúng Phật, nhất là chùa nào mà nơi đó còn có thiện nam tín nữ, gia đình Phật Tử thân thiết với Mẹ. Nhớ những Lễ Vu Lan xa xưa, con quỳ bên Mẹ, châm trà thêm vào tách, khi Mẹ khàn giọng. Con nói nhỏ bên tai Mẹ, từng vị Đại Đức, từng Thượng Tọa đã dạy con giáo lý Phật Pháp. Mẹ tươi cuời.
Nỗi buồn còn chất ngất khi con nhớ tới các sư sãi còn kẹt lại quê nhà.
Mỗi ngày xa quê hương, mỗi khi Hè về, Vu Lan đến là mỗi phút giây ngơ ngác, muộn phiền tiếp nối với những con mê kéo dài.
Sao ở cái xứ sở quạnh hiu, quanh năm tuyết phủ giá băng này, con không có Cha, có Mẹ, trong lúc Vu Lan về! Lễ Hội đến! Một thoáng giây tiếc thương ngậm ngùi. Di ảnh của Mẹ, lặng lẽ trên bàn thờ. Hình hài của Cha, không kịp mang theo trong chuyến hành trình đi xa, con đi vội vàng như bỏ quê hương trốn chạy.
Nhìn lại bệ thờ tổ tiên, nụ cười hiền hòa, bao dung của Mẹ, ánh mắt nhân từ, phúc hậu, rực sáng của Mẹ, mong đợi con đem niềm vui trở về.
Mẹ! Một vùng kỷ niệm bỗng nhiên lũ lựợt tràn về trong tươi mát nhưng cũng không khỏi vấn vương một chút ngậm ngùi, nghẹn ngào trong tức tưởi vì niềm vui phiêu bạt chưa trọn mà nỗi buồn man mác xâm chiếm tâm hồn con với những đêm dài thao thức, khó ngủ, gợi cho con nhớ đến Mẹ già, mắt trủng, thân gầy, tóc bạc phơ, đang đứng tựa cửa chờ đàn con dại đi hành hương ở các chùa xa chưa về.
Mẹ ơi! Nếu giờ này con còn Mẹ, con không bao giờ để cho Mẹ, phải nghĩ ngợi, lấy tiền đâu, để trả cho hết nợ căn nhà mà con vừa mua.
Khi Mẹ còn sống, chính đời sống nghiệt ngã đã làm khổ Mẹ. Mẹ lao đao, lận đận, mải miết suốt ngày, làm việc khổ cực, để kiếm tiền nuôi bày con dại.
Mẹ ơi! Con nhớ Mẹ! Con cũng biết con sẽ mãi mãi không còn
đuợc ở bên cạnh Mẹ nữa. Dường như Mẹ đã không có được một ngày vui nào! Hoặc Mẹ có vui nhưng niềm vui của Mẹ không trọn vẹn. Mẹ làm việc vất vả suốt ngày, Mẹ lau bàn thờ ông bà, rồi Mẹ lại nấu cơm, rửa chén bát, chùi nền nhà cho bóng loáng thêm, Mẹ gom quần áo mà các con của Mẹ, vứt bừa bãi trong các hốc kẹt. Mẹ giặt sạch từng vết dơ dính trên túi áo. Mẹ kết lại từng hột nút áo...
Công việc của Mẹ không phải chỉ chừng ấy thôi. Có lúc Mẹ tưới mấy chậu hoa hồng … nên lúc nào con cũng thấy Mẹ lăng xăng, bận rộn suốt ngày, mà khi Mẹ nằm xuống, yên nghỉ, thì con lại không đuợc tha hồ mà quỳ lạy bên Mẹ.
Ngàn đời con vẫn còn ân hận.
Mẹ tha lỗi bất hiếu của con, nghen Mẹ!
“Cúi lạy Mẹ rộng đuờng tha thứ
Phận làm con chưa trả nợ biển Đông”
Bỗng nhiên, tôi chợt nhớ ra, đêm nay, ngày11 tháng 5 năm 2018. Chỉ còn hai ngày nữa là đến Ngày Lễ Mẹ. Ngày của Mẹ lại bắt đầu. Giá như bây giờ con còn Mẹ, để Mẹ con mình lau sạch lại bàn thờ, mua sắm lễ vật về cúng Phật, rồi con sẽ tặng quà cho Mẹ, vui biết chừng nào hả Mẹ? Con sẽ giới thiệu cho Mẹ những bạn bè cũ của con. À Mẹ oi! Con sẽ dẫn Mẹ đến gặp Ni Cô Lạc, để Mẹ xem, Ni Cô cũng vẫn còn trẻ, khoẻ mạnh như thuở nào đó Mẹ ạ!
Con sẽ dìu Mẹ về Chùa Từ Tâm, để Mẹ viếng thăm Thầy Phước Tấn.
Mẹ! Con tim réo gọi. Lòng con sao rộn ràng quá!
Con muốn viết lên trang giấy này về Ngày Lễ Mẹ ! Về các Thầy, các Thượng Tọa, nguời quen kẻ lạ cho Mẹ nghe!
Tìm mãi cho mình nỗi nhớ thương. Muốn ngấu nghiến mà chữ nghĩa lại mù mịt. Lặng thinh. Câm nín. Nạo óc mãi không tìm đuợc hồn văn. Ý tưởng cứ nối vòng chìm nghỉm trong đáy ly cà phê pha vội. Nghe cô đơn len lén trở về, rã rời. Nỗi nhớ Mẹ buồn đến vỡ con tim!
Chấp cánh cho hồn bay theo từng dòng dĩ vãng. Chập chờn. Quấn quít. Gần gủi và nhớ thương Mẹ vô vàn. Sao hồn con bỗng nhiên buồn tênh như một ngày vừa mới mất Mẹ!
Mẹ
Có những đêm con chập chờn nhớ Mẹ
Dường như Mẹ về, cúi xuống hôn con
Mẹ mỉm cười khi con còn bỡ ngỡ
Có lẽ nào? Hồn Mẹ đó hay sao?
Duy Xuyên
Tacoma
Bài thơ Thu Tương Tư
đã được Post trên Diễn Đàn Văn Nghệ Tự Do ngày 12 tháng 10 năm 2017.
Tôi thiết nghĩ khi đề cập đến các nhà thơ nữ của Trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang mà không đề cập đến những tên tuổi khác như Trân Châu, Lê Thị Hoài Niệm, Song Phượng, Kim Hiến, Tố Anh ... cũng là một điều thiếu sót, bởi vì tất cả những Nhà Thơ, Nhà Văn có tên nêu trên là những tác giả đã thành danh trên con đường Văn Học Nghệ Thuật ở Hải Ngoại. Tôi sẽ tìm đọc lại những bài viết của Lê Thị Hoài Niêm, Kim Hiến và Trân Châu để trình quý độc giả khi thời gian thích hợp.
Riêng hôm nay tôi mới vừa đọc được bài Thơ Thu Tương Tư của Tố Anh với một cảm xúc thật dồi dào...xúc động.
Kính mời quý độc giả thưởng thức bài thơ THU TƯƠNG TƯ của Tố Anh sau đây:
Mây thu lơ lửng ngang trời,
Gió thu nhè nhẹ ru hời cỏ cây,
Nắng thu đã ngả về tây,
Hồ thu liễu rủ gợi đầy nét thơ.
Trăng thu dẫn lối vào mơ,
Mộng thu thức giấc ngác ngơ bàng hoàng,
Sương thu còn đọng chưa tan,
Lá thu nhuốm đổi lên vàng không hay.
Mưa thu từng hạt bay bay,
Trời thu cảnh vật đổi thay sắc màu,
Vườn thu lá bỗng nghiêng chao,
Tiếng thu đâu đó làm xao xuyến lòng.
Mắt thu buồn mỏi chờ trông,
Lệ thu nhòa nhạt phấn hồng vì đâu?
Dáng thu đẹp nét u sầu,
Tóc thu huyền ảo ngã đầu nhớ thương.
Nghìn thu lá đổ vấn vương,
Đời thu nuối tiếc nên tương tư hoài.
Tố Anh
Bài thơ Thu Tương Tư của Tố Anh được viết theo thể thơ Lục Bát (câu 6 - câu 8 chữ.)
Thơ được viết thành 18 câu Lục Bát với 4 khổ thơ và 2 câu kết gồm 126 chữ.
Tôi muốn nói, chỉ chừng ấy chữ nghĩa, mà Nhà Thơ Tố Anh đã chuyển tải được cả một tấm lòng thật "Thu" vừa đơn giản vừa tha thiết như tôi đã tìm thấy bóng dáng của một nàng thơ mang cả nỗi sầu, để ngày ngày nhìn lá thu rơi, có gió heo may vờn nhẹ cỏ hoa, có nắng hoe vàng trong vườn thu, có mây thu lơ lửng ngang trời, bên hồ có liễu rủ....
Chỉ chừng ấy ngôn từ, mà nhà thơ đã cho ta thấy cả một trời thu ảm đạm, có mây thu, trăng thu, sương thu, có lá thu đổi màu vàng, có mưa thu từng hạt rơi, có lá thu bay nghiêng chao trong gió, có dáng dấp người con gái đẹp nét ưu sầu, lại có tóc thu huyền ảo... Cảnh trí của mùa thu, được mô tả thật đầy đủ từng chi tiết kể cả những sợi tóc đang bay trong nắng thu về, làm cho cảnh vật thật vô cùng sống động một cách lạ thường.
Tôi thường tìm đọc những bài thơ của Tố Anh trên nhiều và rộng khắp các diễn đàn. Thơ Tố Anh có một chỗ đứng nhất định trong văn học nghệ thuật thi ca Hải Ngoại, nhất là một chỗ đứng riêng biệt trong Văn Bút Hải Ngoại ngày nay, vì lẽ thơ của người nữ sĩ này thật đơn giản nên dễ đi vào hồn của mọi người.
Chữ nghĩa của Tố Anh rất mộc mạc, nụ cười hài hòa thân quen như cận kề, không có khoảng cách cho tất cả mọi người trong Văn Nghệ Tự Do.
Ngôn ngữ Tố Anh đã dùng tuy bình dị, dễ hiểu nhưng nó đã bao hàm sắc thái không phải là 'đời thường' mà là tiếng thơ:
"Vườn thu lá bỗng nghiêng chao,
Tiếng thu đâu đó làm xao xuyến lòng".
Hồn thơ thật chất phát với những từ ngữ lơ lửng, nhè nhẹ, ru hời cỏ cây, đã ngả về tây, dẫn lối vào mơ...
Những từ ngữ rất thật thà, không trau chuốt nhưng khi đã được nhà thơ ghép vào vần, thì quả là những câu thơ tuyệt tác dễ đi vào hồn người, nên thơ của Tố Anh đã được nhiều nhạc sĩ tài danh như Cung Đàn, Hoàng Cầm, Linh Phương, Linh Mục Si Tình (LMST), Quỳnh Chi, Thuỵ Lữ phổ nhạc.
Sự khắc khoải, vu vơ và lãng mạn của nhà thơ đã đưa hồn mình vào mỗi chiều để ngắm:
"Mưa thu từng hạt bay bay,
Trời thu cảnh vật đổi thay sắc mmàu" ...
Nhà thơ đã hốt cả mùa Thu vào hồn mình; cho ta có cái cảm giác thu về, lá rụng, có mây trời tím, để lòng ta cũng mang nỗi sầu, để hồn mọi người sẽ phải tái tê theo gió thu về.
Tôi không biết làm thơ, nên không dám bình thơ của nữ sĩ Tố Anh mà tôi chỉ diễn tả với nỗi niềm của người đọc, với nhớ nhung của người Lính năm nào, đã liếm từng giọt sương trên những lá thu mà nghe hồn về trong cõi ộng bâng khuâng, với :
"Dáng THU đẹp nét ưu sầu,
Tóc THU huyền ảo ngã đầu nhớ thương."
Tố Anh có cách làm thơ riêng biệt cho chính mình và vì cái riêng của Tố Anh đã dành một chỗ đứng rất khác biệt với mọi người:
" Mắt thu buồn mỏi chờ trông,
Lệ thu nhoà nhạt phấn hồng về đâu?"
Thơ Tố Anh rất phong phú, chữ nghĩa bình dị như tâm tình của nữ sĩ.
Ngôn ngữ rất dễ thương, đa cảm, dịu dàng như giòng sông Cái thơ mộng của quê hương thuỳ dương cát trắng.
Đọc áng thơ Thu Tương Tư của Tố Anh, tôi thấy tình cảm của nữ sĩ đã dành cho ai đó sao mà thiết tha quá.
Có lẽ đó là lời thề ước của Tố Anh với chàng Thương Anh? Tự nhiên tôi thấy như quen biết từ lâu bởi những lời thơ thành thật của Nhà Thơ Tố Anh đã chiếm trọn cảm tình của người đọc, nhất là ở cuối bài thơ nữ sĩ đã viết:
"Nghìn thu lá đổ vấn vương,
Đời thu nuối tiếc nên tương tư hoài."
Ôi! còn lời nào thành thật và chân tình hơn câu thơ nói trên. Cho phép tôi nghiền ngẫm, ngấu nghiến, nuốt trọn từng lời thơ, ý thơ của Tố Anh vào chính ngăn tim tôi. Tôi hy vọng nhạc sĩ Cung Đàn khi đọc bài thơ thật hay này, sẽ phổ thành nhạc cho Tố Anh vì bài thơ này tự nó đã tiết lên những âm giai cung điệu của nhạc, có cô nữ sinh Huyền Trân nghiêng nón thì thầm ca tụng thu về trong khoảnh khắc.
Trong thơ Tố Anh đã tạo được nhạc điệu. Thơ Tố Anh, chữ nghĩa thật chập chờn tạo được nhạc trong thơ. Đọc thơ mà nghe mình mênh mông dập dình theo thơ làm cho ta đã tải được hồn trong thơ. Thơ của Tố Anh có hồn, nên được xếp vào thơ hay. Tố Anh làm thơ hay không phải là chuyện làm cho chúng ta ngạc nhiên vì thơ của nhà thơ này đã chất chứa cả mùa thu huyền ảo trong trái tim nữ sĩ:
Từ ngữ rất dễ thương, tuy không nói ra nhưng "tóc thu, mắt thu, dáng thu, lệ thu nhòa nhạt phấn hồng từ đâu?" như chính nàng THU đang tương tư trong niềm thương nỗi nhớ. Dòng Thơ Thu Tương Tư thật vô cùng lãng mạn, triền miên trong nỗi nhớ, khoắc khoải đợi chờ mà tâm hồn nữ thi sĩ thênh thang, cuốn theo những đám mây thu màu tím, rồi vỡ vụn đâu đó đọng lại thành rêu xanh, để thành mưa thu từng hạt bay bay trong cõi vô cùng, oà vỡ để rồi một sáng mùa thu thức giấc ngác ngơ bàng hoàng. Hoang đường từ đó!
Thơ Tố Anh đưa ta đến những chân trời tím, có tóc của người yêu rủ bên cành liễu xanh, trong thi ca vô cùng lãng mạn nhưng nhà thơ Tố Anh đã biết dùng lý trí để kiềm hãm những cảm xúc tuôn trào như sóng vỗ tràn bờ rồi dừng lại trong khoảnh khắc để cho ta trở về với thi ca cổ điển mà nữ sĩ luôn là người đại diện cho Văn Học Lãng Mạn và luôn có hoài niệm Cổ Điển trong thi ca nước Việt.
Duy Xuyên
Tacoma
12/10/17
Nghĩ break, vào diễn đàn đọc được bài viết này của nhà văn Duy Xuyên. Thật là hay và bất ngờ. Lời thơ của nữ sĩ Tố Anh tuy đơn giản mộc mạc nhưng dễ đi vào lòng người. Lời của nhà văn Duy Xuyên không những chân tình mà còn gần gũi dễ mến. Một thơ một văn đã tạo thành một tác phẩm tuyệt vời. Nếu có sư Huynh nào đó lồng vào hình ảnh THU với một PPS kèm theo tiếng nhạc hoà tấu, hay bài nhạc phổ từ thơ của nữ sĩ Tố Anh thì đây quả là một tác phẩm nghệ thuật đáng lưu lại cho thế hệ mai sau.
Đôi dòng mạo muội chia sẻ.
Kính mến
QThai
TẢN MẠN
Tiếng hát TỐ ANH
Người Cổ Tích
(28/05/2017)
Mấy hôm nay, không biết từ đâu, có đàn chim se sẻ nhỏ bay về đây, thành phố Tacoma, nơi tôi đang cư ngụ. Từng ngày trôi qua buồn hiu vì nắng đi hoang chưa về, bỏ tôi ngồi uống cà phê cô đơn một mình.
Bỗng nhiên, sáng nay, nắng lung linh trong vườn nhà. Tiếng chim ríu rít bên giàn hoa giấy đỏ thẳm. Những đóa hồng nở rộ khoe sắc thắm.
Người Cổ Tích lắng nghe, Tiếng hát TỐ ANH và thoang thoảng hương hoa dịu dàng. Tiếng hát mượt mà, óng ả như màu lá me non đang vang vọng trong nắng sớm, hòa quyện với tiếng nhạc đệm hào hùng trong nhạc phẩm Anh Không Chết Đâu Anh, vừa bi hùng, vừa ngọt lịm và ngây ngất như giọt cà phê trên vành môi người đang thưởng thức. Người Cổ Tích ngẫn ngơ theo tiếng hát thật êm ái ở những cung trầm.
Tiếng hát như dòng suối đã tìm sông rủ nhau trôi ra biển khơi và trăm con lạch nhỏ cũng cùng hòa tan trong sóng nước mênh mông, tiếng hát xuôi dòng thênh thang. ..Rồi cả gió, và mây cũng hòa lẫn với tiếng hát, lời nhạc, cùng ngậm ngùi, như thì thầm tiếc nuối, anh chưa chết đâu anh nhưng giấc mơ đã đã xa lắm rồi! Mà hoài niệm tưởng chừng như vỡ tan trong tiếng nất nghẹn ngào, với nước mắt của người nữ ca sĩ TỐ ANH, đã làm tôi khóc theo.
Tôi khóc cho Người LÍNH Anh Hùng đã nằm xuống, cô đơn trên đỉnh đồi. Tôi khóc cho thân phận của những goá phụ mất chồng trong cuộc chiến. Tôi cũng đã hòa một vài giọt nước mắt bởi tiếng hát truyền cảm như có thật, có người lính chưa chết thật, tay vẫn cầm vững súng, và xác giặc thù ngã gục. Hồi đó người Lính đã chết thật nhưng ngay bây giờ, giữa tiếng hát thật GIAO CẢM của CA SĨ TỐ ANH, người LÍnh Trận chưa chết thật. Anh vẫn hiên ngang về với gia đình.
TỐ ANH không phải là một ca sĩ chuyên nghiệp. Tôi không rõ Hoa Hậu Phu Nhân Tố Anh đã hát từ hồi nào nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe TỐ ANH hát, với nỗi xúc động như chính mình có người thân vừa tử trận trên chiến trường xa xưa một thuở nào đó!
Thật tôi không ngờ vì TỐ ANH đã diễn tả lời hát như tiếng reo của đạn...
Tiếng hát TỐ ANH, nói lên nỗi day dứt, tiếc nhớ “người xưa giờ đã thật xa, đã chết rồi, nhưng chỉ trong phút chốc: "ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH”, và tiếng hát lúc thì bi tráng lúc thì mềm mại như mây nõn bỗng vút cao, nghe khắc khoải, xao xuyến.
Tiếng TỐ ANH hát như Sương sa mông lung nỗi nhớ!
Tiếng hát quyện vào những notes nhạc lay lắt như lá vàng phai rồi năm tháng mãi đi qua, người LÍNH đã thật xa...
Tiếng hát như vừa khóc mà sao đêm nay nước mắt tôi rơi.. có giọt buồn trong khe tim.
Rồi lòng tôi lại chùng xuống:
Và tiếng hát lại tha thiết, như lời vỗ về ấm áp, chân tình đem lại niềm lạc quan, một không gian sáng rộng mở.
Tiếng hát ngân nga thật truyền cảm với cách luyến láy điêu luyện đã đưa người nghe đến với nhiều cung bậc cảm xúc.
Đây là lời Tản mạn của người viết qua bài hát Anh không chết đâu anh.
Tôi nghe tiếng hát vọng về từ những tháng năm xa vời vợi, mà cuộc chiến hồi đó, tình khúc này ngày xưa, TỐ ANH vẫn còn là cô nữ sinh Trường Nữ Trung Học Nha Trang, bước chân chim còn dại khờ mà hồn còn trinh nguyên.
Nay thì tiếng hát hòa với tiếng nhạc dìu dặt trong cõi người muôn lối,
Tiếng hát và tiếng nhạc cùng nhau kết mối giao hòa!
Buổi sáng hôm nay thật đẹp, có tiếng hát, tiếng nhạc, có nắng trong bên song cửa, có màu lá nõn, và những nụ hoa e ấp…
Đẹp quá, vì có tiếng hát TỐ ANH , có tiếng đệm nhạc của THƯƠNGANH!
Hạnh phúc vô vàn!
Một chút tâm tình như rượu say… mà vành môi chưa cạn, khe tim đang tìm suối rủ sóng về với biển khơi, xa tít nghìn trùng…
Dẫu cuộc đời như thoáng mộng, ta vẫn vui ý đời trong tiếng hát hùng tráng của TỐ ANH, có nụ cười trên môi của THƯƠNG ANH và có nụ hôn trìu mến của SONGANH trong căn nhà lộng gió, đêm nay, đêm mai và mãi mãi trong niềm hạnh phúc vô biên.
Cho phép Người Cổ Tích được hân hoan đón chào ngày vui của Hội Văn Nghệ Tự Do!
Tôi thiết tha hơn vì rượu chưa rót, ly nước trái cây chưa ai kịp uống mà tình bạn, tình đồng đội, tình đồng hương đã say trong lời ca tiếng nhạc dịu vợi , làm ấm lên cõi lòng xa cách.
Tôi có thể hiểu được tiếng hát của TÓ Anh, cùng say sưa với tiếng hát Mỹ nhân Hoàng Yến cùng tiếng hát của vị Mục Sư đáng kính đang thủ thỉ kể cho nghe tiếng lòng...
Cám ơn ĐẤT TRỜi!
Cám ơn các VTH trong Hội VNTD.
Cám ơn các nhạc sĩ trong hội VNTD
Người Cổ Tích
duy xuyên
28/05/
Tiếng hát NGUYỄN HÀ
và NGỌC QUỲNH
Trời Tacoma có gió thu se lạnh.
Có Mây Tím buồn che khuất nẻo về.
Vài chiếc lá vàng thu rơi nhè nhẹ trên hè phố buồn thiu.
Vài hạt mưa gõ nhẹ trên vai của một cặp trai gái đang dìu nhau trên con phố nhỏ…
Tôi ngồi gác chân lên trên lò sưởi, hơ ấm lòng bàn chân trong triền miên của trời đất.
Bỗng có tiếng hai người thì thầm hát, chìm nghỉm dưới mạch sầu ray rứt.
Tôi chết lịm trong men tình diệu vợi.
Tiếng hát cất lên từ bể sâu thăm thẳm của một miền thật xa nhưng tưởng như thật gần, từ Úc Châu, bỗng chốc trỗi dậy trong tiềm thức xa xưa.
Tôi nghe thấy bước chân ai bước nhè nhẹ dưới mưa thu rồi ngập ngừng xót xa trong nỗi mơ màng, hụt hẩng để những âm thanh kết hợp của một người nam, với tiếng đệm ngọt ngào của một người con gái, mà thanh âm dị kỳ, thật xa xăm, thanh thoát, vừa như nủng nịu, vừa như ấp ủ van xin ... bềnh bồng trong cõi hư vô, kế tiếp kéo dài trong nhịp thở. “
Giọt buồn mùa thu” Thanh âm thiết tha, cao vút như MÂY Trời lộng gió, như nhớ ai thu buồn”
Tôi ngất đi trong men tình dịu vợi.
Tôi lắng nghe nhưng tiếng hát không trở lại để dư âm như hụt hẩng, đọng lại ở đâu đó trên gác chuông nhà thờ gõ 10 tiếng thanh thoát.
Tôi nhìn dưới đáy ly cà phê có bóng dáng của những
hạt mưa
rơi..
Tôi định hình: -Những giọt mưa thu đang rơi mà Nguyễn Hà hát, màu gì?
Ngỡ ngàng, tôi không thể phân biệt được, tiếng hát có màu sắc gì?
Có lẽ là màu Nguyễn Hà hay màu tóc thật xinh của Ngọc Quỳnh? Màu Mây Trời bàng bạc… Thanh khiết như âm thành ngọt ngào của Ngọc Quỳnh.
Một màu sắc chỉ có trong âm thanh của tiếng gọi,
tiếng thi th ầm của Người Nữ Ca Sĩ đàng gọi THU VỀ cho Diễn Đàn Văn Nghệ Tự Do thưởng thức.
Ai hát vậy?
Vì chỉ có thanh âm rung cảm của rừng núi tĩnh mịch mới định hiình đuợc màu sắc của giọt mưa Thu đang nỗi bồng bềnh trên những giọt đắng.
Tiếng hát Ngọc Quỳnh chợt tắt hẳn để nhường chỗ cho ký ức lang thang của một vùng nhớ thương trỗi dậy.
Phải rồi, tôi chưa gặp người nữ ca sĩ đó ở một nơi nào thật tĩnh mịch lẫn lộn trong tiếng cười vui của một ngày nắng thật đẹp trong ngôi vườn xinh xắn mà lời ca tiếng hát của Ngọc Quỳnh thật hiền hòa của một tà áo trắng, nữ sinh trên thành phố Úc Châu, có tiếng cười của biển mộng mơ.
Thật hoang đuờng! Tôi giơ hai bàn tay già nua của Người Cổ Tích, 86 tuổi già, tròn 23 năm lính, 6 tuổi tù, để cố rượt bắt những âm thanh kỳ bí đang trôi bềnh bồng, lang thang theo một đám mây tím bay thật thấp.
Hạnh phúc đến với tôi quá đổi đong đầy. Các âm thanh vừa nằm trọn trong 5 ngón tay của tôi. Tôi cất giữ những âm thanh dị kỳ, huyền hoặc đó vào kho nhạc riêng tư của tôi để sáng sáng, bên ly cà phê pha thật đậm, tôi chờ Thanh Đào thức dậy, để mở cho nàng nghe những dư âm huyền diệu đó !
Người cổ tích
Cám ơn Nữ Ca Sĩ Ngọc Quỳnh và Nhạc Sĩ Ngyễn Hà
Người Cổ Tích
duy xuyên
TỪ TIẾNG HÁT ĐÓ ...
Tiếng hát Nguyễn Hà
Người Cổ Tích
Tôi không còn nhớ, đã từ bao giờ, có tiếng hát ngân dài 6 câu vọng cổ của bạn Nguyễn Văn Hà, một nhà văn, một nhà thơ, một nhạc sỉ đã thành danh ở hải ngoại.
Anh Nguyễn văn Hà ca và đệm đàn các bài hát do anh sáng tác thật điêu luyện. Tiếng đàn và lời thơ của anh Hà đã làm nức nỡ bao trái tim! Rộn Ràng! Òa Vỡ!
Không những chỉ dừng lại ở đó, mà anh Nguyễn Văn Hà còn cho chúng ta, nghe anh ca vọng cổ thật mùi, như danh ca Hữu Phước.
Thành thật mà nói, tôi, Nguời Cổ Tích viết bài này, rất mù lòa về tân nhạc và cổ nhạc, nhưng trời phú cho tôi lỗ tai biết nghe các âm thanh kỳ bí đó. Tôi cũng chưa
bao giờ bỏ qua những bài hát vọng cổ của Ngô Truờng Tiến, rồi Quốc Thái ca tân
nhạc với giọng khàn khàn, dễ đi sâu vào tâm tư người nghe như tôi.
Và cũng trong thời gian đó, bất ngờ Người Xứ Vạn, anh chàng Nguyễn Văn Sanh, còn có cái tên Nguời Miệt Dưới mà không ai có thể quên anh, với những bản nhạc do anh phổ từ thơ của bằng hữu và ngay cả những bài thơ do anh sáng tác với nhạc-danh là Cung Đàn.
Tôi không có cái hạnh phúc to lớn để được quen nhiều với những nguời bạn ở Úc, nhưng những người tôi quen biết đều là những tài danh trên nhiều phương diện như nhà văn, nhà thơ Lương Mỹ Trang, Luật sư Nguyễn Thuần.
Theo tôi nghĩ, làm một bài thơ hay đã là khó, phải đem hết tâm hồn, gieo vần để khi đọc lên, cái âm hưởng của lời thơ sẽ nằm sâu vào khe tim của người nghe. Rồi phổ từ lời thơ qua notes nhạc quả là kỳ tài.
Giá như Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ Nguyên Sa của chúng ta, biết phổ thơ của mình thành những bản nhạc thì nhất định tiếng thơ và lời nhạc sẽ mang một sắc
thái với những cung bậc, âm giai mà mình muốn diễn đạt.Theo tôi nghĩ, vì chính tác giả mới thật sự rung động với lời thơ của mình qua notes nhạc hơn ai hết.
Cung Đàn và Nguyễn Văn Hà đã thành công trong lãnh vực này vì hai anh đã phổ những bài thơ của chính hai anh qua các bản nhạc. Do đó nhạc của hai anh có một chỗ đứng riêng biệt trong âm thanh huyền bí đó!
Theo quan niệm lỗi thời của tôi, Người Cổ Tích, 84 cái xuân xanh cứ gói gọn tân nhạc và cổ nhạc là hai lãnh vực khác nhau. Ai đã rành về lãnh vực nào thì gắn bó với lãnh vực đó. Nào ngờ hai chàng trai trẻ, ngưòi Xứ Úc xa xôi lại ôm trọn cả hai lãnh vực này về một mối. Sao cái Xứ Sở Úc lại có nhiều THIÊN TÀI đến thế!
Cho phép tôi, được đứng nghiêm, giơ tay lên trán, chào Cung Đàn và Nguyễn Văn Hà với tư cách là người cổ tích, trong muôn vàn cái thẩm sâu của kính phục.
Trở lại nội dung của bài viết này, tôi sẽ nói rõ hơn nguồn gốc của bài Thơ Tiếng Hát Ơi của Thi sĩ Nguyễn Thị Ngọc Vân, do Nhạc si Cung Đàn phổ nhạc và Ngọc Hiếu, một ca sĩ đã làm nức lòng người nghe qua những bài hát như Bốn Mưoi Năm Rồi Sao, thơ của Lê Mâu, do Cung Đàn phổ nhạc.
Ngọc Hiếu đã không những thành công bài hát 40 Mươi Năm Rồi Sao, mà Ngọc Hiếu cũng đã hát ca khúc Tiếng Hát Ơi rất thanh thoát. Giọng Ngọc Hiếu rất sang trọng như chính dáng điệu thanh cao của nàng.
Sở dĩ Nguyễn Thị Ngọc Vân sáng tác bài thơ thật hay này vì chính Nguời Xứ Vạn đã ca vọng cổ bản Tình Anh Bán Chiếu trên Diễn Đàn Võ Tánh Nữ Trung Học Nhatrang.
Và từ tiếng ca vọng cổ đó, Ngọc Vân đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ Tiếng Hát Ơi để tặng cho Nguyễn Văn Sanh.
Câu chuyện tuởng như chỉ dừng ở đó, để thời gian sẽ lắng chìm cả lời ca Tình Anh Bán Chiếu và bài thơ Tiếng Hát Ơi! của Ngọc Vân.
Bất ngờ, chẳng bao lâu sau, Cung Đàn, chàng trai Xứ Vạn, lại phổ nhạc bài thơ Tiếng Hát Ơi làm quà tặng Thi sĩ Ngọc Vân, và nhờ ca sĩ Ngọc Hiếu hát.
Tiếng hát Ngọc Hiếu lại trôi dần về khung trời cũ xa xưa, quyện bước chân chim chiều tan trường về, con đường có hàng me xanh che bóng mát in dấu chân cô Nữ Sinh Nữ Trung Học năm nào , nay đã thành bà Dược Sĩ đang hành nghề tại Việt Nam, người đã sáng tác bài thơ Tiếng Hát Ơi! này.
Và cảm kích món quà đặc biệt của NS Cung Đàn, Ngọc Vân đã say sưa tập hát rồi thu âm bài hát này và phổ biến trên Diễn Đàn Võ Tánh Nữ Trung Học Nha Trang.
Bất ngờ, Nguời Xứ Vạn lại phổ biến bài hát này trên Diễn Đàn Văn Nghệ Tự Do, tiếng hát Ngọc Vân lại lan xa và được nhiều thính giả khen ngợi.
Trong số những người được nghe bài hát này qua hai diễn đàn khác nhau là Như Mai (Nhà Văn Mai Sa Mạc) Diệu Nga,và chính tôi (Duy Xuyên *Nguời Cổ Tích).
Trong các lần nghe vọng cổ Tình anh bán chiếu và đọc thơ Tiếng Hát Ơi, lần nào tôi cũng có viết bài Cảm Nhận Tình Anh Bán Chiếu - Cảm Nhận Thơ Tiếng Hát Ơi và Tản Mạn về Tiếng Hát Ơi do ca sĩ Ngọc Vân hát.
Do đó, Như Mai (Mai Sa Mạc) có đề nghị tôi gởi lại cho các bạn trong DĐ Văn Nghệ Tự Do đọc. Tôi nghe lời cô gái áo lụa, ngày ngày vẫn châm thêm nước vào bể sành cho chim uống. Như Mai ngồi trong cửa sổ cắn hạt bí và nhâm nhi ly nước gừng pha mật ong, ngồi ngắm đàn chim se sẽ uống nước, để nàng thả hồn mình với những bài văn hay thật hay.
Trước hết, tôi xin gởi theo đây, bài Tản Mạn để Quý Niên Trưởng và Anh Chị Em trong Văn Nghệ Tự Do đọc cho vui trong những ngày nắng hạ còn reo vui trên khắp nẻo đường.
NGƯỜI CỔ TÍCH
"Tôi đang cần một ngọn lửa.
Liệu em có phải là một que diêm?"
Nha Van Nguyen Xuan Hoang)
|
16-09-2014
|
Cảm khái về một đoản văn: Tôi cần một ngọn lửa! Của Nhà Văn Nguyễn xuân Hoàng, cựu học sinh Truờng Trung Học Võ Tánh Nha Trang, đăng trên Đai Tiếng Nói Hoa Kỳ ngày 23 tháng 7 năm 2012
Tacoma, ngày ... tháng ... năm 2014
Thanh ơi, Cám ơn em đã gởi cho anh bài văn của Nguyễn Xuân Hoàng. Thật tình mà nói, từ trước đến nay, anh chưa bao giờ được đọc một đoản văn rất ngắn và hay như thế.
Thanh đã hỏi anh: "- Có cảm khái gì về bài văn của Nguyễn xuân Hoàng?" Nói một cách thành thật, chữ nghia của nhà văn Nguyễn xuân Hoàng là ngôn ngữ của riêng Ông. Thứ ngôn ngữ riêng biệt, đa dạng mà Ông đã dùng rất sâu sắc ... mang triết lý trí tuệ vừa mô phạm vừa có ẩn dụ chính trị học, nếu ta chịu khó suy ngẫm những ngôn ngữ đó, nó còn bao hàm cả xã hội học và nhiều lãnh vực khác; mà trong đó tác giả đã ++++++++++++++++++nói lên những xúc cảm của chính mình, của bạn bè, của dân tộc và Ông còn muốn bao hàm cái bất hạnh của cả nhân loại.
Anh không phải là một nhà phê bình văn học nhưng hiện tượng trong văn học kể cả những từ ngữ mà nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã dùng nó đã không thể thiếu và cũng không thể thừa, dù chỉ một chữ. Em hỏi thì anh phải nói, chứ tầm thường như anh mà phê bình văn của Nguyễn Xuân Hoàng thì quả là anh quá hàm hồ, tham lam mà vị trí, hoàn cảnh không cho phép anh làm diều đó. Nhưng nếu viết để em theo dõi, tham khảo bài viết: "Tôi cần một ngọn lửa!"; thì anh mới dám giải thích riêng cho em mà thôi. Đó Thanh tháy không? Đoản văn nói trên vỏn vẹn có 19 dòng, kể cả tên tựa đề của bài viết. Anh cố đếm thử, Ông chỉ viết có 280 chữ, với 5 phân đoạn rất ngắn mà Ông đã diễn tả được ý mình muốn nói, quan điểm sống, lòng yêu tổ quốc, cái bất hạnh của khốn cùng ... cái lạnh cóng của giá rét, cái bụng đói meo ...
Chừng ấy chữ nghĩa mà Ông đã lột trần được một xã hội bất công, một đất nước vinh quang những nghèo đói, lầm than, nô lệ. Anh cũng cô gắng, thử bỏ bớt một chữ trong bài văn cũng không thể được, hoặc anh thêm một chữ nào vào bài văn cũng không xong. Chữ nghĩa như an bài, nó đã trật tự như não bộ của Ông đã xếp sẵn rồi viết ra mà chúng ta không thể nào thêm hay bớt, dù chỉ có một chữ cũng không xong.
Em hãy đọc lại đoản văn này, Thanh sẽ thấy, đây là lối hành văn sáng tạo mang rất nhiều ẩn dụ, dùng một sự việc này để nói lên kết quả của một trạng thái khác. Bức phóng ảnh mà Nhà Văn Nguyễn xuân Hoàng đã cho chúng ta xem là những lăng kính hội tụ, khó phai mờ trong tâm khảm của người đọc, rồi từ đó những ức chế trong lòng ta sẽ được nhìn qua thấu kính hội tụ mà chân dung của nhân vật trong doản văn sẽ hiện rõ như lưu lượng của một dòng sông đang bị tắt nghẽn... hay dòng nước đang chảy xiết vào đại dương mông mênh. Đây, anh giải thích thật giản dị về phân đoạn 5 để kết luận cảm nghĩ của anh, về bài đoản văn này. Nhà Văn Nguyễn xuân Hoàng đã viết: "Tôi đang cần một ngọn lửa. Liệu em có phải là một que diêm?" (NXH) Tên của bài viết: Tôi cần một ngọn lửa! Cuối bài Ông lại viết: Tôi đang cần một ngọn lửa! Đó, em thấy không? Chữ nghĩa và ngôn từ, lời văn và ngay cả ý niệm, chúng ta không thể nào thêm hay bớt một chữ nào. Nếu em đem chữ đang ở cuối bài văn lên 'tên tựa đề' của bài văn thì em sẽ thấy nó khác biệt vô cùng.
Rất tiếc trong phạm trù này, anh cũng không có đủ thời gian để giải thích cho Thanh được, nếu có dịp anh sẽ giải thích thêm thật rõ ràng cho em rõ nhé, "Tôi đang ..." có nghĩa là một hành động đã và đang tiếp diễn trong hiện tại và nó còn tiếp tục trong tưong lai cho mãi đến khi nào Ông, đất nuớc mình, kẻ khốn cùng không còn cần nữa ...ngọn lửa đấu tranh mới thôi! Nếu nói rộng ra, tha nhân, lòng bác ái của Ông, em đừng nghĩ đơn thuần là Ông chỉ ích kỷ nói về Ông, cá nhân Ông mà Ông muốn nói đến đại chúng, một dân tộc Việt và bao hàm cả nhân loại ... Còn câu: "Liệu em có phải là một que diêm?" Trong câu này, anh chỉ nói đến chữ ‘em’ ... thôi. Anh tạm để yên đó, rồi một mai anh sẽ ngấu nghiến từng chữ, từng dấu chấm câu để thấy được đời thuờng này, sao lại có Một Nguời Mà Đã Dùng Chữ Nghia như nhà văn Nguyễn xuân Hoàng.
Trở lại chữ 'em' trong bài nhé. "em" là nhân xung đại danh từ, ngôi thứ 2, số ít: {em, anh, bạn.} Vậy 'em' là ai mà tác giả muốn hỏi: Em cung có thể là nguời vợ, người tình của tác giả. Em cũng còn có nghia bao hàm cà nguời trẻ, thế hệ mai sau. Em cũng có thể là Thanh, là anh. Và nó còn bao hàm cả một nhóm nguời: “Hãy cho tác giả một que diêm, để nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, đốt sáng suởi ấm tâm hồn Ông, rồi que diêm lửa nhỏ đó sẽ bùng lên soi sáng cho quật cuờng của dân tộc đang ... đang ...đang nghèo đói, xã hội đang bất công mà quê hương chúng ta là một nhà tù to lớn, đang nhốt cả 90 triệu đồng bào.
Nguời Cổ Tích
Xin mời đọc bài viết của Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng
"Tôi cần một ngọn lửa!
Tôi có một khạp gạo, truớc đây, mỗi ngày vẫn giở nắp ra múc vài lon nấu ăn, nghi rằng mình còn sức khoẻ có thể trồng cấy cày bừa, gặt hái. Nhung một buổi sáng thức dậy, nhìn vào khạp gạo thấy gạo không còn nữa. Buớc ra ruộng, nhìn thấy cánh đồng mênh mông khô cạn, bỗng thấy tứ chi rã rời, đầu óc choáng váng. Hình như máu không còn chảy lên đầu nữa. Tôi ngã xuống trên miếng ruộng tôi đ ã từng cày bừa. Giống như một nông dân, những cánh đồng truớc mặt không còn là đất đai của mình nữa. Tôi đang là một nguời vô gia cư trong chữ nghĩa - một homeless trong một thành phố của đất nuớc trù phú. Tôi đang nằm ngủ d ưới lề đuờng, không mền gối chiếu chăn. Tôi đang co ra lạnh cóng trước một ngôi nhà sáng đèn đầy tiếng nói cười .... Tôi đang đứng trước một nhà hàng ăn mà bụng không một hạt cơm. Tôi tưởng miình đang đứng bên một thùng phuy đầy rác ruới trên bãi đất bên bờ sông dưới gầm cầu Golden Gate của thành phố San Francisco và cần một ngọn lửa ... Tôi đi tìm những que diêm rơi rớt đó đây,
nhưng những que diêm đã cháy. Tôi đi tìm những bật lửa, nhưng những bật lửa chỉ còn tim và đã khô cạn xăng. Tôi đi tìm những cọng rơm, những trang giấy, nhưng tất cả đều đã ướt. Tôi đi tìm những giọt xăng dầu nhưng sao tìm hoài mà không thấy .... Tôi đang cần một ngọn lửa! Liệu em có phải là một que diêm?
{NXH} 23.07.2012}
|
duy xuyên |
Tacoma
|
1._* Xôn Xao Guốc Gõ, trang 66-70. của Lương Mỹ Trang.
Nội dung bài viết như nỗi lòng của tác giả về quá khứ tuổi thơ:
"Bâng khuâng, tôi nhìn thấy một tôi ngày ấy, con bé (người viết thêm chữ:Mỹ Trang) theo Má đi qua những hàng guốc đủ màu của chợ Xóm Mới, đôi mắt trẻ thơ đăm đắm nhìn lên những đôi guốc bé tí, sơn hoa màu sặc sỡ. Đôi guốc là niềm mơ ước của tuổi thơ tôi, mãi cho tới cái Tết năm lên tám. tôi mới có được đôi guốc đầu đời, màu xanh da trời vẽ những chiếc lá lan uốn éo, điểm vài chấm hoa tim tím xinh xinh. Đôi guốc chưa được mang đến niềm vui nhỏ cho tuổi thơ, cái Tết năm ấy kèm súng đạn pháo kích vào phi trường, tụi nhỏ bị nhốt hết trong nhà, tôi ôm đôi guốc chìm vào giấc mơ đầy tiếng nổ của pháo và của súng."
Lương Mỹ Trang, cô bé trong ngôi nhà với khu vuờn rộng bát ngát cây xanh ở đường Nhị Hà, lớn lên trong chiến tranh rất cạnh kề thành phố. Hỏa châu thường xuyên được bắn lên, để soi sáng hàng rào phòng thủ của Phi Trường Quân sự, dọc theo đường Vân Đồn, chỉ cách nhà Lương Mỹ Trang chừng một cây số.
Dịp Tết Mậu Thân 68, Việt Cộng lợi dụng hưu chiến trong 3 ngày Tết, để mọi người được hưởng Xuân, đón giao thừa - bọn họ đã bất ngờ tấn công thành phố Nha Trang, bằng tiếng pháo đón giao thừa, để xâm nhập các đơn vị chuyên môn trong thành phố Nha Trang.
Nếu đừng có chuyện gì xảy ra, có thể Mỹ Trang đã được Ba-Me cho phép cô bé 8 tuổi của những tháng ngày xa xưa ấy, mang đôi guốc hoa, gõ nhịp rộn ràng mà bóng dáng rất nên thơ của những con đường có hoa, có nắng, có bụi hồng, duyên dáng trên áo, với đôi mắt tròn xoe hun hút, theo những tiếng gõ dịu dàng qua những con đường nhỏ Nhị Hà, Cửu Long, Trần Nhật Duật ... để những dấu chân xưa vẫn còn là ký ức, vẫn vùi sâu trong tiềm thức đang trỗi dậy...
Nhưng đêm 30 - cái đêm trừ tịch vọng về người em gái còn nhỏ xíu với tiếng pháo nổ chen lẫn với đạn thù, và cô bé Mỹ Trang phải đành ôm đôi guốc mới vào lòng, thiếp đi trong giấc ngủ hãi hùng, để mong sáng mai Mùng Một Tết, được tung tăng, nhưng những ngày đầu xuân được đi qua, thì cuộc chiến vẫn còn âm ỉ kéo dài đến ngày 30 tháng 4, cô bé 8 tuổi Lương Mỹ Trang của Tết Mậu Thân, cô nữ sinh lớp 9 năm 1975 của trường Nữ Trung Học Huyền Trân bị thay tên đổi họ:
"Tôi đi vào đời bằng những đôi guốc đơn sơ làm từ gỗ cây vông nem, loại guốc rẻ tiền và thông dụng nhất. Gỗ vông mềm, đi dễ chịu, không đau chân. Đường đến với ngôi trường trung học đã thay tên, đường lên bục giảng, đường đời gập ghềnh, hầm hố, bùn sình khiến tôi vấp té, hụt hẫng, thì đôi guốc mộc, quai trong suốt của những năm khốn khó đã nâng đỡ bước chân tôi đi tới."
Phải rồi đó, Lương Mỹ Trang ơi! Những ai đã mang guốc vông sau 75, phải đem theo búa đóng đinh, dăm ba cái đinh, để guốc đứt giữa đường, mình phải tìm một lề đường nào đó, kê guốc lên lề đường, để đóng quai guốc lại rồi tiếp tục đi nông trường, trả nợ cho 'nghĩa vụ lao động' hàng năm cho mỗi một công dân hạng hai, mỗi năm phải trả nợ 15 ngày, đi đào mương, dẫn thủy nhập điền...
Phải rồi, hồi đó người thành phố như Lương Mỹ Trang phải mang theo dăm chiếc đinh bé xíu có cái mũ trên đầu loại chuyên dùng đóng guốc và một thanh sắt thay cho cái búa đóng đinh guốc khi cần...
Hồi đó, hàng trăm ngàn tù nhân chính trị, phải mang 'dép râu' và mỗi người tù, đều phải mang theo một thanh tre mỏng, hay một thanh sắt mỏng, để khi giây dép bị sút ra, có dụng cụ để rút giây cao su khi dép bị sút giây.
Những cảnh trong thành phố, các thiếu nữ phải xách theo tay đôi guốc đứt, bẽn lẽn đi về nhà... hay trong những cánh rừng xa, anh em tù nhân chính trị, phải buộc đôi dép râu bị đứt vào lưng quần, bằng giây chuối khô, để chờ khi được nghỉ lao động mà rút giây dép lại...
Tôi vô cùng cám ơn đôi guốc ngày xưa ấy đã đưa Lương Mỹ Trang "đi rất xa quê hương khốn khó ."... khi em "thầm lặng vẫy tay chào chiếc guốc bập bềnh, ngơ ngác trên biển, chào một đoạn đời lùi xa vĩnh viễn...
Văn và thơ của Lương Mỹ Trang rất duyên dáng, mềm mại, hiền hòa như nụ cười của Lương Mỹ Trang, nhưng lời văn và ý thơ thật sâu sắc, hào sảng, mang một triết lý sâu thẳm mà người đọc, nếu chỉ đọc thoáng qua, sẽ không thể nào tìm được những ẩn dụ thầm kín trong ngôn ngữ của Lương Mỹ Trang.
Theo tôi, Lương Mỹ Trang là một hiện tượng rất lạ, rất tài năng kể về thơ, lẫn những bài văn sẽ có một chỗ đứng quan trọng trong văn chương hiện đại.-/
Duy Xuyên
Tacoma
"Tôi định hình tiếng hát của em mang màu sắc gì?
Tôi không biết! Có thể là màu lưu ly của Ký ức hoang đường./-" Duy Xuyên
Kính NT Duy Xuyên,
Huynh viết quá nhanh, VHo mới gởi hôm qua mà nay đã có 1 bài nhận định dài, đầy đủ, về người làm thơ, nhạc sĩ phổ nhạc và ca sĩ trình bày. Huynh gởi trọn tâm hồn mình vào lời thơ, điệu nhạc và giọng hát hêt sức sâu sắc, thâm thúy, bằng ngôn ngữ mượt mà, lãng mạn, tình tứ, hấp dẫn, dù bài viết thuộc thể loại phê bình nhận định tác phẩm, nhưng khi đọc VHo cứ tưởng chừng như mình đang đọc 1 truyện ngắn. Môt cách viết phóng khóang và mới lạ!
Xin đa tạ nhà văn/ nhà thơ lão thành Duy Xuyên. Thật vinh hạnh cho riêng Vinh Hồ, xin phép Huynh đuợc đăng trên trang nhà của VHo.
Kính,
Vinh Hồ
Kính mời quý NT, VH đọc bài viết của NT Duy Xuyên sau đây:
BẢN NHẠC ĐƯA TÔI VỀ
NHỮNG QUÁ KHỨ HOANG ĐƯỜNG
Từ bài thơ này QUÊ TÔI, của nhà thơ Vinh Hồ, đến tiếng hát đó của nữ ca sĩ Hà Thị Thu Thủy với những nốt nhạc lưu ly của nhạc sĩ Linh Mục Si Tình (LMST) đưa tôi về những quá khứ thật vô cùng hoang đường...
GIỚI THIỆU NHÂN VẬT:
*Hà Thị Thu Thủy: người Bắc, cha đã từng là Lính ở Huấn khu Dục
Mỹ, cô
đã một
thời sinh sống tại Dục
Mỹ - Ninh
Hòa, vào một thời tuổi thơ. Người nữ ca sĩ đã từng học tại 2 trường:
Trung học Bán Công Ninh Hòa, Niên khóa 1966-1970
Trung học
Trần Bình Trọng Ninh
Hòa, Niên khóa 1970-1972. Hiện người nữ ca sĩ này đang sinh sống chật vật tại Sài Gòn.
*Nhà thơ Vinh Hồ, gốc Lính, người Ninh Hòa, có rất nhiều kỷ niệm với cây cầu Dinh.
Anh là người đồng sáng lập Hội Văn Nghệ Tự Do tại Florida và đã một thời làm Chủ Tịch Văn Bút Vùng Đông Nam Hoa Kỳ.
Anh cũng là một cựu học sinh Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang. Anh đã có những bài văn, thơ trên các Đặc San của Võ Tánh và Nữ Trung Học Nha Trang. Anh đã viết những bài tham khảo về Văn Học Nghệ Thuật, rất có giá trị như bài viết của anh VINH HỒ:
"Vài nét sơ lược về văn học Nghệ thuật KHÁNH HÒa NHA TRANG"
(Đã đọc tại đêm họp mặt đồng hương thân hữu Khánh Hòa - Nha Trang ngày 26/9/98 - Orlando) và đã được đăng trong Đặc San Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang - Giai Phẩm 1999 từ trang 75 - 78.
*Nhạc sĩ Niên Trưởng LMST (Linh Mục Si Tình) cũng là gốc Lính, Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ông là nhạc sĩ có trên cả ngàn nhạc bản đủ thể loại. Hiện ông hoạt động với nhiều Diễn Đàn tại Hải Ngoại.
Ông
là Phu Quân của giai nhân Hoàng Yến, tuy cũng khá luống tuổi nhưng phong cách,
dáng diệu của Hoàng Yến và nhất là nhan sắc của phu nhân vẫn còn thướt tha như
thiên sứ của thuở nào.
Sau đây tôi xin kính mời Quý độc giả đọc qua bài thơ QUÊ TÔI của nhà thơ Vinh Hồ.
QUÊ TÔI
"Qua cầu Dinh cảnh đẹp như hoa
Cây trái xanh tươi, khí dịu hòa
Núi Vọng giăng mây chờ nắng ngã
Hòn Hèo đội mũ gọi mưa sa
Tối nghe trống sấm rền Thiên Bửu
Chiều thấy cò bay sáng Ổ Gà
Thương kẻ chân quê, đời vất vả
Nên sông Dinh chở nặng phù sa.
Vinh Hồ
Bài thơ này Vinh Hồ đã sáng tác từ lâu mà nay nghe lại vẫn thấy hay.
Nhạc điệu Chachacha vừa dồn dập vừa dặt dìu, tình tứ nên dễ khiêu vũ. Qua những nốt nhạc vui tươi, thể hiện tâm hồn trong sáng với tinh thần thanh thoát của người phổ nhạc, niên trưởng Nhạc sĩ Lmst rất trẻ trung, vui tươi và lạc quan yêu đời, yêu người.
Lời thơ Thất Ngôn Bát Cú gồm 8 câu, 56 chữ) của nhà thơ, nhà văn Vinh Hồ đã gói trọn cả tâm tư tình cảm lẫn cảnh trí tĩnh mịch với tình tự quê hương mà người ở xứ Ninh Hòa - thật thơ mộng, quả thật nhà thơ Vinh Hồ là một nhân vật kỳ tài, hiếm có.
"Thương kẻ chân quê, đời vất vả
Nên sông Dinh chở nặng phù sa"
Nhà thơ Vinh Hồ là một Cựu Học Sinh Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang - một thành phố biển, tràn ngập sóng nước mênh mông.
Hình ảnh mà anh Vinh Hồ sưu tập và đã tiết tấu thành những vần thơ điêu luyện mà cảnh trí đã làm tôi nhớ quê hương mình như Núi Vọng Phu, mẹ bồng con ngàn kiếp, đứng ngóng trông người chồng đi chinh chiến xa bao năm chưa thấy về.
Hòn Hèo, rừng núi trùng trùng điệp điệp, hang động chập chùng, âm u với tiếng chuông chùa Thiên Bửu, vang vọng, mỗi buổi chiều về, làm lòng người chùng xuống, mà tâm hồn đang hướng về lời kinh cầu nguyện: Nam Mô A-Di-Đà Phật, ngàn đời bất diệt.
Cầu Dinh, của Vinh Hồ, Quan Dương, Linh Vũ, Thi Thi, Văn Hùng Đốc, mỗi người là mỗi kỷ niệm khó quên, đã đưa vào thi ca văn học nghệ thuật, bát ngát tình yêu mộng mị...
Những địa danh đó đã làm cho những nốt nhạc cha-cha-cha bay bướm của nhạc sĩ kỳ tài, Người đã sáng tác cả ngàn nhạc bản đi vào lòng người.
Tôi cũng đã không thể giữ yên đôi chân 86 tuổi đời chồng chất, khi ngồi nghe các nhạc phẩm lưu ly của NGƯỜI nhạc sĩ kỳ danh hiếm có với các giai điệu Tango, Cha-Cha-Cha mà LMST (Linh Mục Si Tình) đã cống hiến cho đời khi phổ thơ thành nhạc của Vinh Hồ, Song Phượng, Tố Anh, Người Xứ Vạn, Hoa Văn, Uyên Thúy Lâm...
Sáng nay tôi trở về Dục Mỹ để tìm tiếng hát đồng quê với Hà Thi Thu Thủy, để nghe và nhớ về Dục Mỹ, để tìm về bạn bè của Trường Sĩ Quan Pháo Binh, nhớ về Biệt Động Quân và môi mắt của người tình, mà ngày tháng thật lẻ loi, để nhớ lại những đêm sầu ngồi với bạn bè bên nhau khi chúng tôi bị giam cầm, tù tội tại Lam Sơn, trong những ngày tàn rụi của cuộc đời.
Rồi bỗng tiếng hát từ đâu đó, vút lên thật nhịp nhàng thanh thoát của lời ca tựa hồ như một ca sĩ đồng nội vừa cấy lúa vừa hát mà âm thanh lúc thì vút cao lên tận ngọn lúa đang lả lơi, mỉm cười và đôi khi chìm nghỉm như tiếng vẫy đuôi của các con cá trầu đang nằm im để lắng nghe những âm thanh mơ hồ đó!
Và tiếng hát của ca sĩ Hà thị Thu Thủy chơn chất, mộc mạc như ruộng đồng bao la mà lại thanh cao đưa ta vào những kỷ niệm xa xưa của Ninh Hòa- Dục Mỹ, không những cho những ai đã từng đi qua trong đời Lính để nghe đạn pháo binh nổ ì ầm ngày lẫn đêm của các chàng pháo thủ hay phải nghe tiếng gào thét của các anh hùng Biệt Động quân vang dội lời thề "Biệt-Động-Quân!- Sát! mà các khóa sinh đang treo người lủng lẳng trên dây tử thần để dỏi mắt đăm chiêu, nhìn về hướng cờ của chàng trung sĩ Thông, báo hiệu, buông tay khỏi giây thừng, mà định mệnh chỉ quyết định thật nhanh trong 30 giây của tử thần rình rập.
Rồi bài thơ đó, tiếng hát này, hòa lẫn trong âm thanh diệu vợi với tiếng nhạc lưu ly của vùng trời huyền thoại, mà hồi đó Quân Trường Lam Sơn luôn luôn đầy ắp những tân binh quân dịch chờ ra trường, để người Lính phải nện những gót giầy, khắp 4 Vùng Chiến Thuật...
Người xứ Ninh hát về xứ Ninh Hòa, cũng không phải là một chuyện lạ, nhưng chàng trai cầu Dinh đã tô điểm, vẽ lại những địa danh mà ai đã đi qua Ninh Hòa cũng phải nhớ phong cảnh kỳ bí đó.
Bài hát đó với bài thơ này đã đưa tôi sống lại những hoài bão mông mênh về Bưu Điện Ninh Hòa, tuy thật nhỏ nhưng lúc nào cũng lộng lộng hai tà áo trắng tung bay của Trường Trung Học Trần Bình Trọng, mà hồi đó, mỗi khi công tác từ Nha Trang ra Ninh Hòa, tôi thường lấy cớ ghé thăm thầy Đãi, xuất thân từ Võ Tánh, ra làm Giám Học cho Trường Trần Bình Trọng...
Tôi nhớ Xóm Rượu, Xóm Mới của Phạm Hồ Tôn (VT), Quốc Gia Hành Chành, có bà chị gái trắng như tuyết (Phạm Thị Tuyết (NTH NT) nhưng sau 75, phải ngồi nhổ lông vịt mướn tại Xóm Rượu, mà hồi đó rất nhiều chàng Nam sinh Võ Tánh ngắm nghé nhưng duyên nợ không thành.
Bỗng sáng nay lúc 3:00, tại Tacoma có những hạt mưa vỡ vụn ngoài trời.
Mưa buồn lê thê.
Tôi pha vội cho mình một tách cà phê cô đơn, ngồi một mình một cõi.
Cà phê hơi đắng, tôi lấy thêm một mảnh đường, nhỏ, bỏ vào ly.
Tôi khoáy đường cho mau tan, bỗng chốc dưới đáy ly âm vang của một chiều buồn vang vọng!
Phải rồi tình buồn đã vỡ vụn. U hoài!
Người tình mang màu mắt tím xa xưa đã thật sự đi từ quá khứ trong một buổi chiều có tình buồn lảng vảng đâu đây trong tách cà phê quạnh hiu của một sáng ngồi một mình, không bạn bè.
Phải rồi, tôi phải ngập ngừng lắng nghe ai đó như đìu hiu, vang vọng tiếng hát vụn vỡ của nhạc bản QUÊ TÔI!
Phải rồi! Tiếng hát Thu Thủy thân quen! Tiếng hát từ DỤC MỸ - LAM SƠN của một ngày xa lơ xa lắc, bao giờ cũng quanh quẩn trong tôi như khói suơng, như âm vang của một chiều tiễn biệt.
Tôi đứng yên nhìn theo dáng ai vừa nhẹ bước phiêu bồng.
Tôi nhắm mắt để những bước đi của ai đó, trong một chiều rất cổ tích. Phải rồi tiếng hát Thu Thủy đưa tôi về nơi đó mà em thì hoang vắng dị thường.
Tôi lịm đi trong men tình dịu vợi để quên đi bóng dáng xưa và giờ đây là tiếng hát chập chùng, xa và rất xa nhưng cũng gần như hôm qua. Vụn vỡ mà đôi khi như tôi đang dìu em bước từng bước một của một dêm không trăng sao trong màn sương mù mịt trên đường về nhà em.
Hồi đó! Em như một thiên sứ, còn ta quạnh hiu như một người lính trận.
Tôi hốt hết lời ca của sáng nay, bỏ vào ly cà phê, khoáy lên để tiếng hát được tan nhanh trong bọt biển. Tôi nuốt trọn tiếng hát đang chìm nghỉm trong giọt nhớ để hồn tôi quỳ xuống dưới chân em như 65 năm xưa nhưng em vẫn để tôi một mình trong một chiều rất lạ! Hụt hẫng. Có dáng ai đang leo lên dốc Huấn Khu Dục Mỹ của ngày tháng xa xưa, khó quên mà ngậm ngùi để nhớ!
Tạ ơn em đã để lại trong tôi vết tích bao giờ cũng hằn lên nỗi khát vọng! Nỗi nhớ triền miên.
Phải rồi tôi đã đưa em về con đường xưa cũ đó, cũng như đêm nay tôi đang đợi trong một khoảnh khắc, nhớ thương vời vợi.
Tôi cám ơn em đã cho tôi uống từng giọt đắng, của ngày hôm qua và mãi mãi trong tôi một Quận Lỵ Buồn vì thiếu dáng em đang lững thững leo lên dốc Đèo Bánh Ít mà hồn tôi vẫn mải miết chờ em dưới chân đồi.
Tôi lại ngất đi trong tiếng hát QUÊ TÔI!
Tôi cám ơn ca sĩ nào đó đã cho tôi nhớ lại Nỗi Buồn Vạn Kiếp!
Tôi lại vội vã cúi đầu ĐA TẠ ca sĩ đã làm những giọt nước mắt rụng rời trong ly cà phê sáng nay.
Tôi định hình tiếng hát của em mang màu sắc gì?
Tôi không biết! Có thể là màu lưu ly của Ký ức hoang đường./-
Người Cổ Tích
05/06/18
Viết vội cho kịp ngày Sinh Nhật 86,
để tặng tác gỉa, nhà thơ Vinh Hồ- bài thơ Quê Tôi.
Duy Xuyên
Người Cổ Tích
Ngày mai, 5.6.18 là Sinh Nhật thứ 86 của Duy Xuyên.
Kính mời Quý NT và ACE VTH uống một ly rượu Mừng Sinh Nhật của Duy Xuyên - Tacoma
ĐA TẠ
Tám Mươi Sáu
Tám mươi sáu, tôi còn lang thang trên hè phố
Thất thểu tìm em trên những áng thơ tình
Ôi mắt em hun hút như những ánh sao rơi
Và lịm chết khi hồn Thu nghe rộn rã
Tám mươi sáu, vẫn còn mê ly rượu đắng
Vẫn đi hoang với nhạc điệu xập-xình
Vẫn nhìn ai tóc xõa bên hàng liễu xanh
Thường ngồi say sưa bên men rượu đắng
Thả tâm tư theo từng tiếng nhạc buồn
Tám mươi sáu tôi vẫn tràn đầy mơ mộng
Mơ mái tóc dài và tà áo nữ sinh
Mơ cùng ai trao chén rượu ân tình
Dù bao kiếp tôi vẫn ngồi đây đợi
Ai bảo tám mươi sáu là già
Không! không! tôi vẫn còn là người tình si
Thích ngắm hoa nhìn bướm lượn quanh vườn
Nghe tiếng em hát mà thấy lòng thênh thang
Thường ngồi ngắm ánh trăng tan
Nhìn tóc em rũ bên hàng trúc xanh
Trái tim dập dồn nghe hồn rộn rã
Cảm thấy lòng vội vã khi nghe bước chân em về
Hồn tưởng chừng như cánh gió mềm
Thả đi hoang như hạ trắng rong rêu
Em hững hờ tiếng oanh vàng thỏ thẻ
Sách vở nào cũng phải vứt bỏ đi
Những mơ ước theo hồn ai hối hả
Đứng giảng bài ngày tháng thật bơ vơ
Nhớ sân truờng thơ mộng buổi ban sơ
Đợi giờ học sao Thiên Sứ chưa vội đến
Buổi học nào em vẫn cứ lặng thinh
Mái tóc dài em vào đời vội vã
Nghe xôn xao tim vỡ tự hồi nào
Thương em lắm!
Áo trắng thơm tuổi học trò
Mắt em buồn như ẩn hiện áng mây trôi
Sao thiên sứ chờ gì mà chưa chịu nói
Cô học trò bé nhỏ bây giờ ở nơi đâu đó
Có mơ về tình lỡ thật lênh đênh
Nhốt kỷ niệm vào tim nghe hồn lạc
Thật hay hư, sao thấy quá hững hờ
Niềm mơ ước nghe chừng như chẳng có
Máu lệ trào lớp học vắng bóng em.
Tuổi đã tám mươi sáu, vẩn còn đây hy vọng
Mong một ngày được sống thật với ước mơ…”
Duy Xuyên
Tacoma
Ngày 5 tháng 6 năm 2018
Kỷ Niệm Sinh Nhật Thứ 86 của Duy Xuyên
Tiếng hát ân cần của TÂM THƯtừ bài thơ SẮC MÀU KỶ NIỆM của VINH HỒ qua những nốt nhạc của CUNG ĐÀN
Người viết:
Duy Xuyên
(Tacoma)
Sáng sớm hôm nay, trời Tacoma nơi tôi cư ngụ, đang vào hè, nhưng những hạt sương khuya còn rơi rụng đâu đó, để cùng hòa nhịp với tiếng mưa ngâu vội vã rơi từng giọt trên những chiếc lá đang nẩy mầm.
Tôi đong đưa ngồi cô đơn, một mình, một cõi, trước ly cà phê pha vội, mà chưa một ai, gọi tên tôi ra hè phố, của một sáng Chủ Nhật, đìu hiu...
Tôi nhâm nhi những giọt đắng đang tràn về đầu lưỡi, bỗng từ đâu đó, có tiếng hát của ai vọng về, trong âm thanh thật trìu mến.
Tôi cho thêm vào ly cà phê đen đậm, một mảng đường thật nhỏ.
Tiếng muỗng khua trong ly, tuy thật nhỏ như tiếng thủy tinh rơi, cũng đủ làm cho chú chim sẻ đang ngủ gà ngủ gật bên hiên nhà, bỗng hoảng hốt vụt bay đi, để cho tiếng hát từ xa, vụt đến thật gần mà thanh âm vút cao như réo gọi.
Tiếng hát như dặn dò:
"Dòng nước trôi đi bao giờ trở lại?
Tôi ngồi đây nhặt từng kỷ niệm rời"
Tiếng hát lắng sâu trong tâm tư tôi một khoảnh khắc.
Tôi ngồi định hình tiếng hát lưu ly đó là ai?
Thật tình tôi nghe tiếng hát rất thân quen nhưng tôi không thể nào nhớ lại giọng ca trong như nắng thủy tinh đó.
Phải rồi những kỷ niệm rời rạc của lời thơ, đưa tôi về Sài Gòn, trên con đường đến trường, có lá me bay, quyện gót chân chim... của thuở mộng mơ, trên con đường Cống Quỳnh, gần trường Trung Học Tư Thục Hưng Đạo để lôi tôi về ký ức thật loang lổ của vùng trời huyền thoại nhưng... quả thật bất ngờ, giọng hát của người ca sĩ có một nửa Huế của những ngày ấu thơ và còn lại một nửa còn chất chứa giọng Sài Gòn... đã kéo tôi nhớ lại Người Nữ Ca Sĩ Tâm Thư... mà tôi đã nghe cô hát nhiều lần...
Vài giòng giới thiệu ca sĩ TÂM THƯ:
Tâm Thư là một nữ ca sĩ quen thuộc trong giới văn học nghệ thuật. Dù không đứng trên các sân khấu lớn, nhưng ca sĩ Tâm Thư lại là một tên tuổi “lớn” trong lòng người hâm mộ. Người ca sĩ này đã hát và để lại quá nhiều nhạc bản của các nhạc sĩ hải ngoại trong đó có LMST, Minh Nhã, Vĩnh Điện, Cung Đàn, v.v...
Người ca sĩ khả ái này, với tuổi đời trên dưới 30, gốc Huế, hiện sống ở Saigon và chuyên hát cho các Trung tâm nhạc hoà âm tự do.
Tâm Thư là một nữ ca sĩ rất kín đáo nên ít người biết về thân thế của nàng nhưng nàng là một nữ ca sĩ trẻ đẹp, tiếng hát vừa thanh tao vừa sang trọng, tràn đầy sức sống. Tiếng hát của cô đã lôi cuốn được những người thích nghe nhạc.
Người nữ ca sĩ này, có thể hát nhiều thể loại khác nhau, không thua gì các ca sĩ đã nổi danh ở Sài Gòn, Việt Nam, hay tại các Trung tâm nhạc PBN hay Asia hiện nay.
Tôi không còn nhớ, đã từ bao giờ, có tiếng hát ngân dài, thanh âm vút cao vừa trong sáng vừa nhẹ nhàng như những hạt sương của ca sĩ Tâm Thư, qua một bài thơ tuyệt tác của Vinh Hồ, một nhà văn, một nhà thơ, đã từng là Chủ Tịch Văn Bút Miền Đông Nam Hoa Kỳ.
Bài thơ này đã được một nhạc sĩ quen thuộc ở hải ngoại, xuất thân từ Phong Trào Hưng Ca đã lâu, phổ nhạc.
Anh Nguyễn văn Sanh, bút danh Người Xứ Vạn, cũng là một người ham thơ văn có tên trên các văn đàn như Văn Nghệ Tiền Phong.
Nhưng thật sự nếu chỉ viết vài dòng quá sơ lược và thật thô thiển về Vinh Hồ và Cung Đàn, quả thật không thể nào nói đủ về tài năng, chỗ đứng trong Văn Học Nghệ Thuật của hai anh.
Nhưng điều quan trọng ở đây là cả hai anh đều là học sinh Võ Tánh Nha Trang niên khóa 1968. Một trường Trung Học nổi danh nhất Miền Trung trước năm 1975.
Nhạc sĩ Cung Đàn phổ nhạc bài thơ Sắc Màu Kỷ Niệm của thi sĩ Vinh Hồ mà ca sĩ Tâm Thư hát, có những nốt 'rê' nốt 'si' đã làm cho bài ca, tiếng hát thật điêu luyện. Tiếng nhạc của Cung Đàn và lời thơ của Vinh Hồ đã làm nức nở bao trái tim yêu nghệ thuật! Rộn Ràng! Òa Vỡ!
Không những chỉ dừng lại ở đó, mà nữ ca sĩ Tâm Thư còn cho chúng ta nghe cô hát như các danh ca của một thời trời đất mênh mông...
Thành thật mà nói, tôi, Nguời Cổ Tích viết bài này, rất mù lòa về nhạc lý, nhưng trời phú cho tôi lỗ tai biết nghe các âm thanh kỳ bí đó. Tôi cũng chưa bao giờ bỏ qua những bài hát tựa hồ như lời thơ âm vang của triết học Đông Phương...
"Chiều thủy tinh phe phẩy lá vàng rơi
Tôi lại nhặt những sắc màu kỷ niệm."
Tôi đã nghe thấy những vệt nắng thủy tinh bò ngang lối nhỏ khi theo ai tan trường về nhưng nay nhà Thơ Vinh Hồ, tiếng hát Tâm Thư và những nốt nhạc quỷ quái của Cung Đàn đưa tôi về với những 'Chiều thủy Tinh' tôi đứng lang thang chờ một người mà mình không bao giờ dám hẹn, để những gót thủy tinh biền biệt ra khơi, mà biển Nha Trang của tôi bây giờ đang khóc... Thơ Vinh Hồ, Cung Đàn phổ nhạc và tiếng hát liêu trai của Tâm Thư, đã réo gọi tâm tư người nghe nghe như tôi một tình cảm thật vô cùng dịu vợi.
Phải rồi tôi phải về Sài Gòn ngay bây giờ, để... ngồi nghe Tâm Thư đang hát.
Giọng hát em ngày tháng thật thênh thang...
Phải rồi, tôi phải về Vạn Giả, để nghe Cung Đàn phổ nhạc, hay tôi phải về Cầu Dinh, ngồi nghe thơ Vinh Hồ nhưng chắc chắn tôi sẽ về Sài Gòn để thăm cô em Út, người dưng khác họ hay tôi sẽ về một xóm nhỏ nào đó ở Hồ Con Rùa để tìm cho được tiếng hát trong như ngọc, buồn như chiều thủy tinh mà tiếng hát của Tâm Thư vẫn còn vang vọng. Tôi chỉ xin, chỉ thêm một lần nữa thôi, cuối cuộc đời, tôi cũng chỉ đứng lặng thinh để được nghe thêm một lần nữa tiếng hát đó...
Tôi không có cái hạnh phúc to lớn để được quen nhiều với những nguời bạn ở Úc, nhưng những người tôi quen biết đều là những tài danh trên nhiều phương diện như nhà văn, nhà thơ Lương Mỹ Trang; Luật sư Nguyễn Văn Thuần; nhà thơ, nhà soạn nhạc Nguyễn Văn Hà...
Theo tôi nghĩ, làm một bài thơ hay đã là khó, phải đem hết tâm hồn, gieo vần để khi đọc lên, cái âm hưởng của lời thơ sẽ nằm sâu vào khe tim của người nghe. Rồi phổ từ lời thơ qua notes nhạc quả là kỳ tài.
Giá như Vinh Hồ của chúng ta, biết phổ thơ của mình thành những bản nhạc thì nhất định tiếng thơ và lời nhạc sẽ mang một sắc thái với những cung bậc, âm giai mà mình muốn diễn đạt.
Theo tôi nghĩ, vì chính tác giả mới thật sự rung động với lời thơ của mình qua notes nhạc hơn ai như nhạc bản “Em Còn Đâu Em Yêu Dấu” của Cung Đàn, đã làm cho trái tim người tỵ nạn có thân nhân chết trên Biển Đông vụn vỡ trong triền miên của nỗi nhớ người thân thật hoang đường mà Biển Nhớ, Biển Động, Biển Xưa, Biển Mộng của riêng tôi còn đang dại khờ từ lệ đá khô cằn...
Cung Đàn vừa làm thơ xong, sau đó anh tự phổ nhạc, vì thế nhạc anh phổ qua thơ thật linh động xúc tích vì chính anh đã trải con tim của mình qua thơ.
Còn Vinh Hồ, một nhà thơ tên tuổi từ những năm anh còn là học sinh của Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang.
Anh đã làm nhiều thơ và đủ mọi thể như thơ tự do, thơ mới, thơ Đường luật... đã góp cho đời và làm cho độc giả say mê qua những âm điệu hay những giai tầng trong thơ của anh đã có nhạc.
Vì hai anh đã phổ những bài thơ đó thành nhạc. Do đó thơ-nhạc của hai anh có một chỗ đứng riêng biệt trong âm thanh huyền bí đó!
*Duy xuyên
(Tacoma)