Tuesday, November 8, 2016

TRANG VĂN LÊ VĂN HƯỞNG 
BÌNH VĂN LÊ VĂN HƯỞNG 
Hình ảnh minh họa trích từ NET
 
NHÀ VĂN LÊ VĂN HƯỞNG
Vài hàng Tiều Sử: 
 
 
-Cựu Sinh Viên Trường Petrus Ký,
-Cử nhân Luật, Đại Học Luật Khoa Sài Gòn
-Cựu Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
Khóa 1 Thủ Đức.
Sách đã ấn hành:

-Nhớ Thương Su Giác Chánh - Cuốn Phim Dĩ Vãng
-Đời Tị Nạn - Truyện Tình Thời Ly Loạn
- Hành Trình Đến Bến Tự Do
 - Hiện định cư tại Tampa, Florida.

 
NHÀ VĂN CỰU ĐẠI TÁ LÊ VĂN HƯỞNG VÀ PHU NHÂN
 
Diễn văn của
Văn Hữu Phạm Hoài Hương
về cuộc đời tác giả Lê Văn Hưởng
nhân Lễ Ra Mắt Sách
  


Thật là một vinh hạnh cho tôi, tối hôm nay, vào những ngày đầu của mùa Xuân Tân Mão đầy ấm áp như thế nàỵ, được Ban Tổ Chức HVNTD dành cho cơ hội đứng ở đây để giới thiệu đến quý vị tiểu sử tác giả TTTN của Người Lính Già, Nhà Văn Đại Tá Lê Văn Hưởng.
 
Vâng, thưa Quý vị, thưa quý Văn Thi Hữu,
Đây quả thật là Người lính già, Người lính già thật sự, ông sinh năm 1927, ông lớn hơn tôi 14 tuổi - số tuổi đời là 84. Ông cũng hơn tôi về số tuổi lính của người thanh niên bước vào cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam tại Quân Trường Thủ Đức, Khóa 1 năm 1951, còn tôi khóa 23 năm 1967.
 
Cho nên tôi thật tâm đắc với nhà thơ Vinh Hồ - gọi tác giả là Người Lính Già - chữ lính ở đây ngầm nói lên tinh thần hào hùng thân thương của người quân nhân trước sứ mệnh đấu tranh cho một VN Tự Do Dân Chủ, cho dù vũ khí trên tay bầy giờ là ngòi bút.
Tôi muốn mượn bốn câu thơ của nhà thơ Lê Thị Hoài Niệm ở trang 196 TuyểnTập:
 
      Nhà tan thất thế ôi cay đắng,
      Nước mất sa cơ thật đoạn trường,
      Chiến đấu thân già nhờ ngọn bút,
      Anh hùng há để tháng năm vương!
 
Thưa quý vị,
Khi ngồi viết về tiểu sử của tác giả, tôi mang trong lòng sự tự hào, tự hào rằng cấp tướng lãnh, cấp tá của QLVNCH chúng ta có trình độ kiến thức hẳn hòi, điển hình là thanh niên Lê Văn Hưởng trước khi vào lính đã hoàn tất bậc trung học tại trường Trung Học Pétrus Ký... Và rồi sau đó, tốt nghiệp Cử Nhân Luật tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Ông cũng được du học tại Trường Hành Chánh Quân Sự Montpellier ở Pháp, tu nghiệp khóa Quân Nhu Cao Cấp tại Hoa Kỳ.
 
 Người lính già sinh quán tại Gia Định, nhưng chuyên nghiệp quân sự lại là Miền Trung và Cao Nguyên, Qui Nhơn, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Kontum, Pleiku, ngược xuôi trên con đường Tiếp Vận cho các chiến trường với vai trò Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Tiếp Vận.
 
Định Mệnh Đất Nước cũng là số phận con người, bản doanh của Người Lính Già Lê Văn Hưởng đóng tại Ban Mê Thuột, 3 ngày trước ngày 10 rạng 11 tháng Ba 1975, ông được lệnh về Nha Trang họp, nhờ đó đã tránh khỏi lửa đạn tràn ngập tại đây. Cùng với cơn lốc Cao Nguyên, đơn vị về Cam Ranh, sau đó về Sài Gòn. Sáng ngày 30 tháng 4, 75, vượt thoát khỏi Sài Gòn một mình, bỏ lại vợ con, để bước vào cuộc đời tị nạn định cư tại Hoa Kỳ.
 
Thưa  quý vị,
Nếu đa số Quân Cán Chính miền Nam bước vào trại tù Cộng Sản để nhận sự trả thù thâm độc, tàn bạo, bất nhân của Việt Cộng thì trên đất định cư, người lính già của chúng ta có mặt trong các nhà hàng, không phải để thưởng thức món ăn ngon mà để làm công việc rửa chén, xắt rau, bưng thức ăn cho khách, rồi làm an ninh trật tự cho tiệm bách hóa, thông ngôn cho người tị nạn, giao hàng cho hãng xe hơi, sau đi bán bảo hiểm nhưng suýt mất mạng vì bị Mỹ đen dí súng giựt tiền tại Miami.
 Ba chìm bảy nổi với số tuổi đời, hiện tại ông và gia đình (đoàn tụ năm 1981) sống ở Tampa với công việc dịch vụ di trú.
 
Thưa quý vị,
Tôi vừa lược qua tiểu sử của Người Lính Già, nhưng hôm nay là ngày ra mắt Tuyển Tập, vậy sự nghiệp cầm bút bắt đầu từ lúc nào, tôi xin dành phần này cho văn thi hữu khác nói về tác phẩm.
 Và để chấm dứt phần tiểu sử, tôi chợt nghĩ đến hôm nay là ngày chủ nhật 13 tháng 2 - ngày mai là ngày thứ hai 14 tháng 2 - là ngày lễ Valentine, ngày lễ tình yêu, một ngày rất quan trọng trong đời sống con người. Tôi nhân đây, chúc riêng cho người lính già "Gừng càng già càng cay, càng nồng". Và chúc chung cho mọi người "Có những giờ phút nồng nàn, ngọt ngào, say đắm, đầy men hồng cho năm Tân Mảo và riêng với anh chị em văn nghệ sĩ, có thêm những tập thơ, tập văn về tình yêu.
Xin cám ơn và kính chào quý vị.
Phạm Hoài Hương
13 - 2 - 2011
 
 
BÀI VIẾT NHÂN LỄ RA MẮT SÁCH
CỦA NHÀ VĂN LÊ VĂN HƯỞNG
 NGÀY 13 THÁNG 2 NĂM 2011
 của Văn Hữu Trần Minh Hiền,
Cựu Chủ Tịch Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại /   
Vùng  Đông Nam Hoa Kỳ
 

Kính thưa nhà văn đại tá Lê Văn Hưởng,
Kính thưa nhà thơ Vinh Hồ, Hội Trưởng Hội VNTD,
Kính thưa nhà thơ Nguyễn Đăng Tuấn, chủ tịch Văn Bút VNHN
Kính thưa toàn thể quý vị hội viên Văn Bút VNHN và hội VNTD cùng toàn thể quan khách,


Nói về về tác giả và tác phẩm của nhà văn Đại tá Lê Văn Hưởng thì nhiều người sẽ trình bày đầy đủ hơn, chúng tôi chỉ xin mạn phép nói lên 1 vài cảm nghĩ mộc mạc ngắn gọn của mình.

Trước hết cho phép chúng tôi được bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục 1 ngòi bút không mệt mỏi dù đã ngoại bát tuần mà vẫn viết sung sức và đều đặn. Không biết rồi đây đến tuổi của Bác, cháu có còn viết nổi gì nữa không. Những bài viết và truyện ngắn của nhà văn Lê Văn Hưởng chân thật, chân thành và đầy tính nhân bản, phản ánh trung thực những tâm tư tình cảm của người dân Việt, dù ở trong nước hay ở hải ngoại, dù trước ngày mất nước hay sau ngày mất nước, tất cả đều rưng rức một nỗi đau, nỗi niềm khắc khoải của dân tộc Việt Nam chịu nhiều khổ đau và oan trái. 15 bài viết hay mẫu chuyện của tập sách này bàng bạc một tâm niệm của tác giả, một người lính già mà giờ đây chỉ còn ngọn bút, ngòi viết để vẫn còn chiến đấu cho quê hương. Là một hội viên của hai hội lớn: Văn bút VNHN và Văn Nghệ Tự Do, nhà văn xứng đáng là một niềm tự hào cho những thế hệ cầm bút tiếp theo.
 Xin cám ơn nhà văn, xin cám ơn đại tá và xin cám ơn Bác. Cầu chúc Bác tiếp tục sáng tác cho độc giả có những tác phẩm mới để đọc và cùng góp 1 bàn tay và tài mọn của mình cho một Việt Nam của tương lai không còn độc tài cộng sản, và tự do dân chủ, cường thịnh.
Trần Minh Hiền
Orlando 13 tháng 2 năm 2011.
 
BÀI PHÁT BIỂU VỀ
TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN
CỦA NHÀ VĂN LÊ VĂN HƯỞNG
Ngày 13 - 2 - 2011
của Họa sĩ Vũ Quang Minh
Kính thưa quý vị quan khách
Kính thưa quý văn thi hữu xa gần
Kính thưa nhà văn LÊ VĂN HƯỞNG
Thật là một vinh hạnh cho tôi được góp tiếng trong buổi ra mắt sách hôm nay của nhà văn Lê Văn Hưởng.
Sau khi đọc xong tác phẩm gồm có 15 câu chuyện ngắn, có những câu chuyện làm cho tôi rơi nước mắt. Nhưng khi đọc lại lần thứ nhì thì theo tôi nghĩ đây không phải là chuyện thông thường, mà có thể nói tác giả tạm dùng những câu chuyện có thật để gởi gắm những quan niệm riêng, những triết lý sống. Người xưa gọi là Ý Tại Ngôn Ngoại .
 Như quý vị cũng biết khi nói về triết lý thì nó khô khan, người đọc sẽ dễ chán, khó nhớ. Cho nên tác giả đã dùng những câu chuyện có thật đó để thuyết minh cho những lý luận, những nhân sinh quan, những trắc ẩn của mình và nỗi đau của thế nhân. Nhưng tác giả LVH viết hay quá làm người đọc thấy cảm động về nội dung câu chuyện rồi nhớ luôn những thông điệp của tác giả gởi gắm trong đó mà không biết. Ví dụ ông bà ta muốn dạy con cháu phải xem trọng tình nghĩa bạn bè nên đã viết nên câu chuyện LƯU BÌNH - DƯƠNG LỄ. Nghe kể câu chuyện tình thân sâu đậm bạn bè thương quý nhau chí tình làm ta muốn khóc, rồi trong tận đáy tâm hồn ta tự nhắc nhở mình hãy sống chí tình chí nghĩa như LBDL.
Tương tự câu chuyện BAO THANH THIÊN, một nhân vật công bằng, thông minh và bác ái...nổi tiếng của Trung Hoa đã làm cho bao thế hệ người Tàu và người VN say mê. Nhưng tôi mới hỏi một anh bạn người Hoa là chuyện đó có thật không? Anh bạn tôi nói chuyện đó không có thật mà chỉ là chuyện tưởng tượng đặt ra để răng dạy đời mà thôi.
 Nhưng thưa quý vị, nhà văn Lê Văn Hưởng của chúng ta ông hay hơn những nhà văn viết về BAO CÔNG ở chỗ ông đã khổ công lựa những câu chuyện có thật như câu chuyện NGƯỜI HÙNG NGHĨA QUÂN, Chuẩn Tướng PHẠM NGỌC SANG ... là những nhân vật có thật, là những con người đạo nghĩa thật, làm cho ta cảm động hơn mà không nghĩ rằng tác giả đang muốn nói về Triết lý sống và thông điệp về tình người. Làm cho người đọc nhớ tự nhiên mà không hay biết.
 Ngoài ra tác giả LÊ VĂN HƯỞNG còn dùng phương pháp viết thật đó, để chống lại cách viết dối trá của CS, họ viết những nhân vật để tuyên truyền không có thật.
Ví dụ CS nêu cao hình tượng anh hùng LÊ VĂN TÁM, họ còn đem cả LVTÁM vào giáo dục, dạy bao nhiêu chục năm qua. Mãi cho đến khi tác giả câu chuyện đó, trước khi chết ông đã xám hối về sự dối trá dơ bẩn của mình rồi tiết lộ nhân vật LÊ VĂN TÁM trong chuyện của Ông là không có thật.
Cho nên khi đọc tuyển tập nầy ta thấy tác giả ghi rõ tên, nơi chốn, hình ảnh nhân vật. Nguyên điều đó chứng tỏ nhân cách nghiêm túc của Ông đã ngược lại với sự giả trá bịp bợm của những nhà văn CS mất tư cách. Sự chân thật là Đạo Nghĩa, là một chân lý tuyệt vời mãi mãi thuyết phục người đọc. Đó là một đặc điểm của tác giả.
VĂN DĨ TẠI ĐẠO là dùng Văn Chương để chuyển tải đạo nghĩa, có người viết dạy đời quá lộ liễu nên kém phần hấp dẫn. Riêng Ông viết quá khéo, văn nhẹ nhàng, mượt mà, sâu sắc đến nỗi khó nhận ra Đâu là Văn, Đâu là Triết Lý, làm cho người đọc thích cả hai.
Có phải chăng vì Văn của Ông sâu sắc cùng nhân cách tình cảm của tác giả thật đẹp mà giới Văn Nghệ Sĩ khắp nơi yêu mến Ông. Người xưa nói đó là DĨ VĂN HỘI HỮU.
 Một điều rất lý thú là Ông đã quật ngã chủ thuyết CS bằng một tư tưởng mới là :
CS chia xã hội làm hai giai cấp gọi là giai cấp Bóc Lột và giai cấp Bị Bóc Lột. Lý thuyết nầy sai lầm nên đã tạo ra cuộc tàn sát dã man tạo thành một vết nhơ của Dân Tộc là cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Trước kia CS đứng trong giai cấp bị bóc lột nay họ là kẻ bóc lột tàn bạo vì họ là kẻ tham lam độc ác dốt nát, si mê...
 
Nhà văn Lê Văn Hưởng viết lại một xã hội cũng có hai giai cấp: giai cấp của kẻ ngu si độc ác tráo trở tham lam vô đạo đức là những người CS. Và giai cấp đạo nghĩa yêu thương trí tuệ của người miền Nam VN tự do biết tri ân, biết hướng thiện. Lý thuyết CS sụp đổ vì sai lầm, lý thuyết của Lê Văn Hưởng đúng vì nó còn tồn tại qua thời gian. Ông đã thuyết minh tư tưởng cao khiết của Dân Tộc: PHÚ QUÍ BẤT NAN DÂM, BẦN TIỆN BẤT NĂNG DI, UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT. Đói cho sạch, rách cho thơm, giàu sang không đắm đuối, tù tội không đổi lòng.
 TIẾN VI QUAN THỐI VI SƯ: tác giả đã trực tiếp bằng cuộc đời của mình để thể hiện triết lý cao khiết đó của Kẻ Sĩ tiến ra làm quan giúp đời và khi thối lui thì ngồi viết văn vui với đời và dùng ý đó giảng về đạo nghĩa cho nhân gian nghe mà tránh xa những kẻ ác, phá hoại đất nước là CS.
 Theo tôi qua tác phẩm Tuyển Tập Truyện Ngắn, ta thấy những thông điệp mà Nhà Văn Lê Văn Hưởng muốn nhắn gởi đến người đọc hôm nay và mai sau là hãy tránh xa chủ nghĩa CS tàn bạo vô nhân và vô luân. Mà hãy yêu thương nhau sống cuộc sống vì Dân Tộc khai mở con đường mới tiến tới hạnh phúc. Mỗi người hãy là một anh hùng chiến thắng cái thói hư tật xấu là lòng ích kỹ hẹp hòi gian dối.
Sau khi đọc xong tác phẩm, tôi tự hỏi Ông Lê Văn Hưởng là một Triết Gia hay là một NHÀ VĂN?. Vì Văn của Ông thật trong sáng, dễ cảm, lôi cuốn tinh vi ví dỏm như vậy. Ông đúng là một nhà Văn rồi. Còn Triết Lý của tác giả cũng rất sâu sắc, thăng trầm, có lý luận chặt chẽ. Cuối cùng theo tôi thấy đây là một nhà văn triết gia. Đúng ra muốn biết ông là một nhà văn hay một triết gia xin mời quý vị hãy đọc tác phẩm của Ông và tiếp xúc thẳng với tác giả thì mới rõ.
Xin kính chào và cám ơn quí vị đã lắng nghe.
VŨ QUANG MINH
ORLANDO, 13 - 2 - 2011
 
Một số hình ảnh Đêm Ra Mắt Sách:


 
 
 
 
 
ĐỌC VĂN LÊ VĂN HƯỞNG
Trần Minh Hiền Orlando ngày 5 tháng 12 năm 2015
 
Tôi rất thích đọc truyện, sách của nhà văn Đại Tá Quân Nhu Lê Văn Hưởng. Những truyện ngắn, bài viết của ông tràn đầy tình yêu thương, nhất là với người Mẹ của ông và tất cả mọi người.  Nhà văn Lê Văn Hưởng viết chân thành, tự nhiên, mộc mạc như ông kể chuyện, tâm tình vậy mà vẫn lôi cuốn, cuốn hút độc giả vì ông viết bằng cả trái tim khối óc của mình. Văn là người, đúng vậy, ở ngoài đời, ông là một người hiền lành, một người cha, người chồng, hết mực thương vợ thương con, một người bạn chân thành tốt bụng, một quân nhân mẫu mực, một công dân gương mẫu... Cho nên văn của ông cũng hiền lành, chất phác như người Miền Nam không khách sáo, hỷ ngữ... Nhưng ông vẫn tu tập theo Phật Đạo va tinh tấn hàng ngày, minh mẫn sáng suốt viết cho đời. Chúng tôi (TMH) rất kính phục và ngưỡng mộ con người của nhà văn Lê Văn Hưởng, từ văn tài đến con người đời thường. Xin kính chúc nhà văn luôn khoẻ mạnh và sáng tác thêm nữa. 
Tên: Lê Văn Hưởng
Chào đời: Ngày 4 /2/1927, tại Bình Hòa Xã, Gia Định
Cựu sinh viên Trường Trung Học Pétrus Ký
Cử Nhân Luật, Đại Học Luật Khoa Sài Gòn
Cựu sĩ quan QLVNCH, khóa 1 Thủ Đức
Huấn luyện chuyên môn:
            - Trưòng Hành Chánh Quân Sự Montpellier, Pháp
            - Quân Nhu Cao Cấp tại Ft Lee, Va (Hoa Kỳ)
Đơn vị sau cùng: Liên Đoàn Trưỏng Liên Đoàn Tiếp Vận (Ban Mê Thuột)
2. Sách ấn hành: Bút hiệu: Lê Văn Hưởng
                1. Nhớ Thương Sư Giác Chánh, 2004
            2. Cuốn Phim Dĩ Vãng, 2004
            3. Đời Tị Nạn, 2005
            4. Truyện Tình Thời Ly Loạn, 2007
            5. Hành Trình Đến Bến Tự Do, 2008
            6. Tuyển Tập Truyện Ngắn, 2010
            7. Trên Nẻo Đường Quê Hương, 2012
 Định cư tại Tampa, FL
Trần Minh Hiền Orlando ngày 5 tháng 12 năm 2015
 
 
Một Cảm Nhận về
“Tuyển Tập  Truyện Ngắn”
của Nhà văn Lê Văn Hưởng
Tạo Ân 
 
            Khi được anh Vinh Hồ giao công tác viết về tác phẩm “Tập Truyện Ngắn” tôi nhận lời liền.  Nhưng sau khi viết được nửa chừng, duyệt qua phần chương trình, thấy chương trình dài lê thê với nhiều bài diễn thuyết, mới có ý định đổi thành “phỏng vấn” cho thay đổi không khí.  Hy vọng không làm hư việc của tác giả (TG) và anh hội trưởng ( HT).  Sau ngày ra mắt, tôi về nhà, mở lại bài viết dở dang, thấy mình cần làm cho xong để tròn trách nhiệm với lời hứa.  Nhưng có lẽ nhờ chậm lại một chút, tôi lại có thêm một chút hiểu biết về tác giả và thấm mùi với tác phẩm hơn. 
 
            Thú thật tôi không biết nhiều về nhà văn Lê Văn Hưởng hơn là một vài lần trò chuyện qua email, hỏi thăm anh Vinh Hồ về cá tính của TG trong lúc đi tìm thêm tài liệu cho bài viết, và trong ngày ra mắt sách, nói chuyện xã giao đôi ba câu thăm hỏi.   Cái ấn tượng đầu tiên của tôi với tác giả là cái bắt tay rất chặt, tôi có cảm tưởng là bàn tay của một thanh niên hơn là của cụ già hơn 80.  Đôi mắt nhìn thẳng đối tượng cùng với giọng nói chân thật hiền hòa của người miền Nam tạo liền cái không khí thân cận.  Rồi thêm cái tính khiêm nhường rất dễ cảm.  Đêm hôm ra mắt sách, TG Lê Văn Hưởng là người kiếm ta tôi trong đám đông trước thay vì tôi phải tới chào hỏi cho phải đạo.  Chỉ nội bằng ấy thôi, ông đã biểu lộ được cái khiêm cung khả ái của văn nhân. 
 
      Sở dĩ tôi phài dài dòng như vậy là để muốn chứng minh cái chân lý “văn là người” mà chúng ta hay nghe thấy.  Tác giả diễn đạt tư tưởng như là giải toán hình học.  Đi từ điểm A đến điểm B chỉ có con đường thẳng là đáp số.  Có lẽ LVH rất giỏi về toán học (đầu năm làm thầy bói đoán mò thôi, hy vọng đoán trúng).  Với lối hành văn giản dị, tránh những hư cấu vô nghĩa, sương khói rườm rà, ý tưởng được xếp đặt theo thứ tự lớp lang, tác giả luôn đi thẳng vào chính đề ngay trong những câu mở đầu.  Trong cách trình bày nhân vật cũng vậy, tác giả tả nhân vật bằng hành động của chính nhân vật thay vì miêu tả qua tâm lý hay ngoại hình.  Và nấp đằng sau những cái đơn sơ là những đề tài lớn lao của con người:  lòng ái quốc, đạo vợ chồng, đạo hiếu, sự tha thứ, hạnh phúc gia đình, v.v …  Nhưng ở đây tôi xin được giới hạn và chỉ bàn tới chân dung người phụ nữ Việt Nam mà tác giả đã thi vị hóa qua hình ảnh thiết tha của con cò. 
 
       Trong nghệ thuật nói chung, từ nghìn xưa nữ tính thường là biểu tượng cho sự chở che,  cưu mang.  Những hình đất nung biểu hiện người nữ từ thời cổ đại thường có khuôn mặt thiếu cá tính, kèm theo thân hình đẫy đà, với cặp vú lộ no tròn, tượng trưng cho sức sống.  Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi nói về nhân vật huyền thoại Mẹ Cả cũng tách rời cá tính ra khỏi nhân vật:  “Tôi cố nhớ lại khuôn mặt Mẹ Cả mà không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt bà Hai Khởi vừa trông vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài, mà tai tái như dái…”.  TG LVH hình như cũng không thoát ra quy luật chung đó khi ông ví von các bà vợ lính miền Nam như những con cò lận đận, thiết tha trong ca dao. 
 
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
 
     Câu ca dao này quen lắm. Như ở tiềm thức. Thuở lọt lòng đã nghe mẹ ru.  Ấy thế mà như lời tiên tri vận vào thân phận một lớp người phụ nữ sau năm 75. 
 
     Con cò là một hình ành lam lũ quen thuộc ở đồng quê chẳng khác chi người phụ nữ chân lấm tay bùn, cong lưng đổ mồ hôi trên mảnh ruộng, chẳng quản nhọc nhằn để đổi lấy bát cơm.  Nhân vật mà LVH chọn, mặc dầu là có thật, nhưng tác giả đặt nhân vật vào chiếc ngôi hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam, và hình ảnh con cò nâng mặt trừu tượng lên cao hơn, cũng giống như khi nhìn vào hình gốm người nữ xưa, chúng ta không thấy mặt, chỉ thấy ngụ ý qua hình thể.
Sau tháng 4 đen, nhà tù mọc lên khắp nơi, mầu âm u đổ xuống che mất ánh sáng.  “Cái cò” xuất hiện như sự cứu rỗi cần thiết trong thế giới nhị nguyên có ác phải có lành.  Các nàng gánh gạo, gánh theo cả hy vọng cứu rỗi.  Sự hy sinh tột cùng của các nàng đúng là nơi nương tựa ấm êm trong cơn biến loạn hãi hùng của đất nước–đúng là nước Cam Lồ đổ xuống vết phỏng nhân gian.
 
     Tôi thấy con cò Việt Nam mình đẹp thật, mặc dù lúc nào cũng lấm bùn, nhưng đẹp còn hơn mấy con hạc trắng phau trong tranh Tàu.  Tự nhiên tôi lại nhớ tới mấy câu thiết tha như vạc kêu sương của Hồ Dzếnh:
Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
Tôi biết tình cô u uất lắm
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi…
 …Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ Hy Sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Tạo Ân 
 
 

BÓNG THIÊN ĐÀNG
Truyện Ngắn Lê Văn Hưởng 
Đảo Bidong, 1981
            Năm, sáu năm sau kể từ ngày Cộng Sản thôn tính miền Nam, số người vượt biển, vượt biên càng ngày càng đông, các trại tị nạn ở Đông Nam Á tràn ngập người bỏ nước ra đi. Do đó, việc thanh lọc người cho đi Đệ Tam Quốc Gia không tiến triển mau như mong muốn, nhiều người tại đảo Bidong chờ đi định cư phải đợi hai, ba năm.
            Thịnh vượt biển đến Bidong hơn một năm rồi mà chưa thấy "nhúc nhích". Nhớ lại, lúc còn ở Việt Nam, anh đâu muốn đi, nghĩ rằng mình là một đoàn viên dân vệ của tỉnh (tỉnh Sóc Trăng), Cộng Sản sẽ quên anh. Nhưng không, anh bị liệt kê vào "thành phần phản quốc, phản cách mạng", gia đình bị đối xử tàn tệ, chúng còn hăm dọa giết anh là khác. Tiền ăn không đủ no, làm sao có đủ cây vàng để vượt biên cả gia đình, do đó, anh chỉ đi một mình, để lại vợ ba con.
             Trên đảo, khi hoàng hôn xuống, anh ngồi buồn nhìn ra biển, hướng về Việt Nam, nghĩ đến vợ con, và lời hứa trước khi ra đi, là sau khi đến bến bờ tự do rồi, sẽ gởi tiền nuôi gia đình và xin đoàn tụ sau. Hơn cả năm rồi, thơ anh gởi về nhà thì có, tiền thì không, ở đảo làm sao có tiền? Mặc dầu Cao Ủy đã thanh lọc và xét cho anh qua Mỹ, nhưng phải đợi có người tại Mỹ đứng ra bảo lãnh, việc chờ đợi làm "nản lòng chiến sĩ" không ít, vì ưu tiên dành cho gia đình đông con.
            Một hôm, đại diện Cao Ủy Tị Nạn trên đảo mời lên văn phòng 15 người "độc thân tại chỗ" (đi một mình) và đã được xét cho đi Mỹ, trong đó có Thịnh. Tại đây, họ thông báo là có một hội đoàn bên Mỹ đứng ra "sponsor" (bảo lãnh) 15 người để làm việc tại một trung tâm du lịch, và hỏi ý kiến xem ai muốn đi. Tức thì, tất cả đồng loạt đưa tay lên.
            Thịnh cùng đồng bạn bước ra khỏi phòng, mừng quýnh vừa la lên:
            - Đi đâu cũng được, ra khỏi Bidong là mừng lắm rồi!
            - Miễn đi Mỹ là được!
            Như vậy, khi vừa cập bờ tự do là đảo Bidong, thuyền nhân tự xem mình đã đến ngưỡng cửa Thiên Đàng, nhưng ngày nay, họ rất vui mừng rời cảnh "hạnh phúc" nầy!
            Ngày sắp hàng lên máy bay đi Mỹ là ngày vui sướng nhứt đời. Máy bay ngừng nhiều trạm trong khi bay hơn một ngày đêm, và đáp xuống San Francisco là chặn đầu tiên trên lục địa Hoa Kỳ. Sau thủ tục của Sở Di Trú, 15 hành khách về trung tâm du lịch được chuyển qua chiếc phi cơ khác, trực chỉ phi trường Fort Myers, thành phố nằm trên bờ biển Tây Nam Florida. Chiếc xe "van" 22 chỗ ngồi của Captiva Island đã đậu sẵn chờ đón khách tị nạn.
           
Phân nửa thiên đàng
            Trung Tâm Du Lịch có tên là Captiva Island Resort nằm trên đảo Captiva, nối liền với bờ biển Ft Myers bằng một cây cầu hẹp nhưng dài gần một dặm, có tên là Causeway Boulevard. Từ phi trường hay từ trung tâm thành phố Fort Myers đến Captiva là khoảng 40 dặm, phải mất hơn một giờ đường xe.
            Đảo Captiva là một dãy đất dài, hẹp bề ngang, theo hướng từ Nam lên Bắc. Đảo là một làng nhỏ có đầy đủ tiệm buôn, nhà hàng... dành cho du khách, với những trò chơi giải trí nào là tắm biển, trợt nước, sân golf, sân tennis, chèo thuyền, đi xe đạp dọc theo bờ biển, hồ bơi... Vì muốn phục vụ du khách tối đa, Trung Tâm rất cần nhân công làm việc, đó là lý do họ bảo lãnh người tị nạn.
            Xe chở 15 thuyền nhân đậu trước cổng chánh, anh em tị nạn được mời vào một phòng họp có bày sẵn thức ăn nhẹ như sandwich, bánh, trái cây đủ loại, nước ngọt, cà phê, trà... Qua hành trình dài vạn dặm, cả ngày lẫn đêm, mọi người đều mệt mỏi, nhưng khi thấy cảnh tiếp đón quá ư chu đáo, anh em tỉnh người, lòng mừng rỡ, muốn hỏi nhau "có lẽ thiên đàng là đây chăng"?
            Cảnh quá đẹp, quá nên thơ, trời trong xanh, biển rì rào, cát trắng, hàng dừa cao, rừng xanh hoang dã, nhà cửa kiến trúc xinh xắn... Giống như thời xa xưa Lưu Nguyễn lạc chốn Đào Nguyên, ngày hôm đó, mười lăm "con nai vàng ngơ ngác" lạc vào cảnh bồng lai Captiva Island. Nhưng đứng trước một ngày mai vô định, xa gia đình, nhớ quê hương, "ngổn ngang trăm mối bên lòng", họ còn đâu tâm trí để thưởng thức cảnh bao la của sóng nước hay tiếng chim ríu rít trên cành?
            Sau đó, thuyền nhân được hướng dẫn xuống dãy nhà dành làm phòng ngủ công cộng, có giường nệm đầy đủ, nhà vệ sinh, nhà tắm với nước nóng, nước lạnh.
 
           Thịnh nghĩ mình không uổng công liều chết vượt biên vượt biển qua đây, từ một nước Việt Nam nghèo khổ bị Cộng Sản đối đãi tàn ác, qua đến đảo sống những ngày "xấc bấc xang bang", giờ đây được mọi tiện nghi của một xứ văn minh, chắc không đòi hỏi gì hơn!
            Ngay tối hôm đó, sau buổi ăn chiều, anh em được mời lên phòng họp để nghe thuyết trình về công việc làm, có một nhân viên xã hội người Việt từ Fort Myers vào thông dịch.
            Anh em chăm chú nghe anh quản lý người Mỹ trình bày, thông ngôn viên dịch lại:
            - Trung Tâm cần đủ mọi nghề, từ phụ nhà bếp, lau chùi, dọn dẹp sạch sẽ, cắt cỏ, trồng cây..., theo lương tối thiểu là 3 đô 50 xu một giờ, một tuần 40 giờ, làm thêm được trả lương phụ trội, cũng có thể làm ít giờ hơn tùy theo nhu cầu công việc, ăn uống tại phạn xá dành cho nhân viên, anh em tị nạn chỉ trả nửa giá cho một phần ăn, vân vân...
            Một anh thắc mắc đưa tay lên hỏi:
            - Tôi không nói được tiếng Anh, làm sao tôi làm việc?
            Anh thông dịch cười cười, dịch lại cho anh quản lý Mỹ, câu trả lời:
            - Ở đây bạn không cần biết tiếng Anh nhiều, chỉ cần nghe được và hiểu là đủ, càng ít nói càng tốt, chỉ cần tay chân làm việc thôi.
            Cả bọn cùng cười, nghĩ trong bụng: "Như vậy là dễ quá rồi!"
            Tiếp theo, qua thông dịch viên, anh quản lý Mỹ cho biết lối sống ở đây ra sao, cách viết thơ, mua tem, bỏ thơ vào thùng, mở chương mục ngân hàng, và mọi điều lặt vặt khác.
            Sau đó, anh quản lý đưa ra bản liệt kê số công việc trung tâm đang cần để mọi người chọn lựa tùy khả năng và ghi tên để ngày mai bắt đầu làm việc. Anh còn nhấn mạnh thêm:
            - Quý bạn muốn ở đây bao lâu tùy ý, nếu không thích, có thể tìm bạn bè hay bà con bảo lãnh ra khỏi nơi nầy.
            Thuyền nhân tị nạn người chọn nghề phụ bếp, người chọn rửa chén, người khác xin quét dọn sạch sẻ..., Thịnh chọn công việc chùi đồng, là lau chùi mấy trái nấm khung cửa, ổ khóa, thanh đồng dọc theo các gian nhà.
            Trong tuần lễ đầu làm việc, Thịnh cố gắng làm tròn phận sự và luôn nghĩ đến tiền lương của anh, để có thể gởi về Việt Nam cho vợ con. Theo anh tính, anh có thể lãnh được ít nhứt $130 mỗi tuần, nhưng anh thất vọng, vì chi phiếu lương chỉ ghi trả $80 thôi, như vậy mất đâu số tiền kia? Không riêng gì anh, đa số các bạn khác đều thắc mắc.
            "Ta phải lên hỏi ban quản lý", bạn bè cử một người khá tiếng Anh để lên văn phòng tìm hiểu lý do; khi đại diện trở về, mọi người hỏi:
            - Họ nói làm sao mà mặt mũi anh buồn xo vậy?
            Anh buồn buồn trả lời:
            - Họ trừ tiền nhà ở, tiền ăn, tiền thuế, đủ thứ thuế, tôi không hiểu, nào là thuế liên bang, thuế tiểu bang, thuế địa phương, ôi rắc rối quá! Cũng có bạn làm không đủ 40 giờ...
            Một bạn khác hơi nóng nảy:
            - Mình tưởng nó cho mình ở không tốn tiền, ai dè cái gì cũng tính tiền hết, đồ ăn lạt lẽo cũng tính tiền, thèm nước mấm thấy mồ...
            Một anh khác:
            - Tưởng qua đây sướng lắm chớ, ai dè làm việc thì phải bấm thẻ tính từng phút, từng giờ, còn phải đóng thuế nữa?
            Một anh lớn tuổi nhứt trong đám lên tiếng dạy đời:
            - Bộ mầy là ông nội người ta sao mà bắt người ta nuôi mầy? Không muốn thì về ở với Cộng Sản đi, cứ đứng núi nầy trông núi nọ!  
            Bầu không khí trở lại im lặng.
            Vài tuần sau, đa số thuyền nhân nhận thấy Captiva Island không còn là thiên đàng nữa, họ cho rằng mình giống như chim bị nhốt trong lồng son, được chủ cho ăn, cho ở, nhưng không được tự do bay nhảy ra ngoài để hít không khí trong lành. Họ nhớ món ăn Việt Nam, tiếc nuối những ngày vui chơi đùa giởn trong khung cảnh Việt Nam khi còn tại Bidong. Tất cả đều muốn tìm bà con, bạn bè ở Mỹ để xin bảo lãnh ra khỏi "đảo bồng lai" nầy.
           
            Ngày thứ bảy hôm đó, là ngày bạn của Thịnh, anh Sắc, từ Fort Lauderdale, thành phố bờ biển miền đông nam Florida, đến đón Thịnh về ở với anh. Trong thơ Sắc cho biết là khoảng 12 giờ trưa đến, nhưng cả đêm thứ sáu, Thịnh không ngủ được. Vừa tờ mờ sáng, anh đã chuẩn bị xong xuôi, ôm bao quần áo lần lần ra đợi ở đầu đường. Anh ngồi trên một tảng đá lớn, đứng dậy, đi tới đi lui, mặt trời càng lên cao, anh càng sốt ruột, trông cho mau đến 12 giờ trưa. Bạn bè ra tiễn anh đi, căn dặn đủ điều:
            - Ê, mầy ra ngoài đó, xem có ai bảo lãnh giùm tao ra nghe!
            - Tụi tao cũng lần lượt kiếm cách đi, ở đây buồn quá!
            Theo đúng giờ hẹn, xe hơi của Sắc lù lù tiến đến.
            - Thôi ở lợi mạnh giỏi nghe, bái bai, bái bai!
            Thịnh vừa nói vừa hớn hở bước lên xe, nhưng lòng cũng bùi ngùi cho bạn bè còn ở lại. Thịnh xem mình như bước qua một thiên đàng khác!
            (Được biết sau đó, thuyền nhân chót rời Captiva gần bốn tháng sau)


Phải chăng đây là thiên đàng?
            Sắc là bạn cùng quê với Thịnh ở Mỏ Cày, Bến Tre. Anh và đứa con trai lớn định cư tại Margate, vùng Fort Lauderdale, hơn hai năm về trước. Sau những ngày đầu vất vả, anh tìm được một công việc tự túc là cắt cỏ. Hai cha con chịu khó dang nắng dầm mưa tiến hành công việc làm ăn. Sẵn có Thịnh về ở chung, Sắc muốn giúp bạn mình có công việc tức thời là tiếp tay với anh trong việc cắt cỏ. Một mặt khác, anh tập cho Thịnh học lái xe. Sau tuần lễ đầu theo Sắc làm việc, Thịnh than phiền:
            - Anh Sáu à (là Sắc theo tiếng xưng hô trong gia đình), ở Mỹ sao làm việc cực khổ quá, cắt cỏ nắng nóng suốt ngày ngoài trời mà anh chịu được vậy anh Sáu?
            Sắc phì cười:
            - Ở đây không lè phè như bên Việt Nam mình đâu, chịu khó thì sống ngon lành đó bạn!
            Thấy công việc cắt cỏ quá cực nhọc, Thịnh nhờ Sắc tìm cho một công việc khác. Nhờ quen biết nhiều, Sắc giới thiệu Thịnh vào làm tại một hãng đóng và sửa chữa tàu. Thịnh được thâu nhận: công việc của anh là bọc fiberglass (nhựa thủy tinh) cho tàu. Lương bổng khá cao đối với một người không chuyên môn, $5.00/giờ trong khi lương tối thiểu là $3.50. Sở dĩ công việc nầy được trả lương cao vì ít người chịu làm: chất nhựa thủy tinh gây dị ứng ngứa trên da.
            Tiểu bang Florida tuy không phải là hòn đảo, nhưng được bao bọc ba mặt bởi biển cả, nước xanh và vô số bờ cát trắng, lại có nhiều bến tàu. Đây là tiểu bang du lịch, với nhiều tàu bè thương mại, du thuyền. Do đó, người ta không lấy làm lạ tại sao có nhiều hãng sửa tàu, đóng tàu. Người Việt Nam tị nạn tụ họp về tiểu bang nầy vì có việc làm, vì khí hậu giống Việt Nam, nóng nhiều hơn lạnh. 
            Sau mấy ngày đầu làm việc, đến chiều, mình Thịnh ửng đỏ, ngứa ngáy khó chịu, nhưng nghĩ đến số lương hậu hỉ để lo cho vợ con bên nhà, anh "gồng" mình, và lướt qua được.
            Trong hãng này, có lối mười người Việt Nam, thợ sơn, thợ mộc, thợ hàn, ông chủ hãng thích mướn người Việt, không phải do ông thương người bỏ xứ ra đi, mà do tánh nhẫn nại của người Việt. Ông khoe với bạn bè:
            - Họ (người Việt Nam) chịu khó lắm, không gọi điện thoại xin nghỉ ngày thứ Hai trong tuần như phần đông người Mỹ; khi có công việc gắp, hãng nhờ họ ở lại làm thêm giờ, họ không từ chối, còn thích là khác, cả ngày thứ bảy, chủ nhựt, họ cũng vui lòng đi làm.
            Một năm trôi qua, Thịnh sống thoải mái, có "rủng rỉnh" ít tiền, mua xe tự lái đi làm, tuy vẫn ở chung với mấy bạn "độc thân tại chỗ", tiền nhà trả nhẹ hơn. Sau đó, anh nhờ nhân viên xã hội Việt Nam giúp đỡ lập thủ tục bảo lãnh vợ con.
 
Vòng khổ lụy
            Nếu Thịnh cứ an nhiên tự tại, anh đã tìm thấy bóng thiên đàng!
            Rất tiếc, sau mấy năm sống tại đất mới nầy, anh hiểu chữ tự do theo một nghĩa khác. Như ngựa không cương, ngày nghỉ, anh cùng bạn bè rủ nhau ăn nhậu, như muốn bù lại những ngày thiếu thốn tại quê nhà. Họ thi đua uống rượu đến say mèm, tìm cách lấp khoảng trống thời gian nhớ gia đình, nhớ Việt Nam.
            Tiền sanh ra tật, lúc rảnh rổi, họ kéo nhau đi casino thử thời vận, tính làm giàu bằng con đường ngắn nhứt. Lúc đó, tại Florida không có casino trên đất liền, casino là những chiếc tàu, mỗi chiếc chở được gần ngàn người. Tàu casino phải chạy ra khỏi hải phận Florida mới có thể bắt đầu cho đánh bạc. Khi ra khơi rồi, tàu chạy lòng vòng trong 5 tiếng đồng hồ, sau đó trở vô bờ, có chuyến khác kế tiếp; mỗi ngày có hai chuyến, một chuyến từ 11 giờ sáng đến 5 giờ chiều, chiếc kế tiếp từ 5 giờ 30 chiều đến 11 giờ rưỡi đêm.
            Đi casino không phải luôn luôn thua, cũng không phải dễ thắng. Đã nhiều lần anh bị thua "cháy túi" rồi, nhưng chứng nào tật nấy, thua rồi muốn gỡ, tính gỡ lại thua thêm.
            Anh cùng bạn bè thích chơi "máy kéo", vì trò nầy không đòi hỏi suy nghĩ nhức đầu, chỉ bỏ đồng tiền kẻm của sòng bạc (tương đương với 25 xu) vào máy kéo, thường thì máy "ngốn" hết, lâu lâu anh gặp ngày hên, "máy nổ" tức là tiền kẻm rớt ra, có khi vài chục, vài trăm đồng tiền kẻm. 
            Một bữa nọ, anh cùng bốn người bạn xuống tàu đánh bạc, sau khi đổi 100 đô ra tiền kẻm, anh ngồi "kéo máy"; sau nửa tiếng, bỗng nhiên đèn chớp sáng rực tại bàn anh, bạn bè la lên:
            - Nổ rồi, nổ rồi!
            Đồng tiền kẻm rớt ra, tiếng leng keng, leng keng không dứt, đèn vẫn chớp chớp. Mấy tay bạc chung quanh nhìn qua bàn của anh, mắt ai cũng sáng rỡ, mừng cho anh vừa trúng bạc. Cô hầu bàn chạy đến đưa cho anh rổ đựng tiền: hôm đó, anh trúng hơn một ngàn đồng. Số tiền nầy rất lớn vào thời đó, tính theo giá một ly cà phê là 20 xu tại tiệm bánh ngọt Dunkin Donuts.
            Cùng lúc, có một bà Việt Nam thấy anh vừa "nố" chạy lại chia vui:
            - Trời anh hên quá!
            Thịnh quay lại, rất đổi ngạc nhiên:
            - Ủa, chị Ba, sao chị ở đây?
            Thì ra, hai người có quen nhau trong thời gian ở đảo Bidong. Lúc đó,  chị Ba cùng chồng và hai con đến đảo, nhưng vài tháng sau, chồng bị bạo bịnh, chết và chôn tại chỗ. Sau đó, chị được Cao Ủy xét cho đi Mỹ sớm hơn. Chị cùng hai con được về Fort Lauderdale nhờ có một hội thiện nguyện bảo trợ và hiện lãnh tiền cứu trợ xã hội (welfare) trong khi làm "chui" (trốn thuế), là lãnh quần áo về may tại nhà cho một nhà thầu Việt Nam.
            Một đàng là trai xa vợ, một bên là gái góa chồng, dễ "thông cảm" nhau nhứt là tại xứ lạ quê người: điều gì tiếp theo không làm ai phải ngạc nhiên.
            Thịnh dọn về ở chung với chị Ba, trả trọn tiền mướn nhà cho gia đình chị và hai con 12 và 10 tuổi, ngược lại anh có một tổ ấm và được chăm lo miếng ăn theo khẩu vị Việt Nam. Đó cũng là một hợp đồng thỏa đáng theo lối sống "vợ chồng hờ".
            Nhưng chị Ba là người tinh đời: biết anh làm ăn khá, có dư tiền, nay chị đòi món nầy, mai món nọ, hết cho chị, đến cho con, nào sanh nhựt, nào Halloween, Christmas, Tết Tây, Tết Ta..., lại còn gởi tiền về gia đình chị ở Phan Thiết, chị tìm đủ lý do để móc túi anh.
            Đôi lúc buồn tình, anh theo bạn bè nhậu nhẹt.., và muốn có thêm tiền, anh tiếp tục đi casino, càng chơi càng thua, đôi khi đem cả tiền lương "nướng" cho sòng bài, tiền nhà băng rút ra gần hết, may là còn giữ chiếc xe để đi làm.
            Có khi anh chơi casino liên tiếp hai ngày cuối tuần, thân thể rã rời, tinh thần uể oải, thua bạc lại càng uể oải thêm. Một ngày thứ hai đó, đang làm việc, anh ngủ gục, bị "súp bơ vai" (giám thị) bắt gặp, anh bị mời đi "chỗ khác chơi".
            Hoảng quá, mất "giốp", làm sao đóng tiền nhà và tiền ăn cho chị Ba? Bối rối quá, anh xin một chưn rửa chén cho tạm qua ngày. Thấy lương rửa chén quá bấp bênh, anh xoay tìm thêm một "giốp" bán thời gian buổi sáng tại một lò bánh mì, nhờ đó, anh cầm cự được, nhưng phải vất vả nhiều và lương bổng chẳng là bao.
            Biết chỗ yếu của anh, chị Ba càng bạc đãi anh hơn, nhưng không dám "đuổi anh ra", ai sẽ trả tiền nhà đây? Nhưng chị có cách khác để "moi" tiền anh.
            Mỗi đêm sau khi xong nhiệm vụ rửa chén, dọn dẹp nhà hàng, anh mang thân hình bệ rạc về nhà để rồi buông tiếng thở than, như câu thơ của thi sĩ hải ngoại Dương Quân:
      
            "Đêm về, bậu ngủ nệm, giường êm
            Ta chiếm sofa, chịu nhịn thèm
            Bậu lock cửa phòng, an giấc điệp
            Ta nằm thao thức, cứ lim dim".
        ("Lão Nô", trong Tập "Điểm Hẹn Sau Cùng")
           

Thiên Đàng ló dạng
            "Ta đường đường là một đấng nam nhi, không thể chịu nhục", nghĩ như thế, Thịnh nhứt định ra đi. Nhớ khi mới đến chung sống với nàng một năm về trước, không khí vui vẻ, ngày chia tay nhau cần được êm thắm, anh lựa một ngày đẹp trời để thông báo cho nàng biết anh sẽ cất bước giã từ, và ngày đó đến.
            - Thôi, tình nghĩa anh với em đến đây là đủ, anh muốn xa em để lo cho vợ con anh!
            Thấy nét mặt nghiêm nghị khác thường của Thịnh, nàng đổi chiến thuật, lấy nhu đối đầu với cương, tung ra "độc chiêu" cuối cùng. Nàng không nói gì, nước mắt chảy ràn rụa, Thịnh giựt mình:
            - Làm gì em phải khóc, mình lớn hết rồi, sớm muộn gì cũng phải chia tay!
            Nàng lặng thinh, càng khóc lớn tiếng, khóc nức nở, Thịnh bước lại vỗ về, nàng gục đầu vào vai anh, ôm chầm lấy anh, anh cảm thấy bủn rủn tay chân ...
            Không gươm giáo, không vũ lực, chỉ với nước mắt, người phụ nữ buộc anh hùng phải xuống gối quy hàng!
            Ba tháng trôi qua êm đẹp, nhưng nàng chứng nào tật nấy, Thịnh càng khổ sở hơn trước, tiền bạc khô cạn lần. Phen nầy, "ta nhứt quyết không để bị lung lạc", anh viết giấy để lại cùng một số tiền "cám ơn" để nàng không "quấy rầy" anh nữa.
            Anh "se" phòng chung với mấy bạn độc thân, tiếp tục "cày" hai "giốp", sáng nướng bánh mì, chiều đến tối rửa chén. Dịp may đến cho anh hai tháng sau, anh bắt được cái "giốp" khá thơm, một chưn thợ sơn trong một hãng tàu khác, lương $5.50/giờ, hơn 50 xu so với việc làm fiberglass khi trước.
      
            Sau khi trải qua nhiều sóng gió trong cuộc sống tha hương, anh quyết tâm xây dựng lại cuộc đời, trở về với thực chất của bản thân anh, không đua đòi làm giàu bằng ngả tắt, giữ trọn tình nghĩa đối với vợ nhà.
            Trong khi kiên nhẫn chờ ngày đoàn tụ theo đơn đã nộp từ mấy năm về trước, anh thấy lòng thanh thản, hy vọng Thiên Đàng sẽ ló dạng một ngày không xa!
                                                 Lê  Văn Hưởng  
              10/08