Monday, January 28, 2019


TRANG THƠ VĂN
MỪNG XUÂN KỶ HỢI - 2019
của nhiều tác giả   
Hình ảnh minh họa: nguồn NET
CHÚC XUÂN KỶ HỢI
CHÚC đất mẹ trời xanh biển xanh
MỪNG quê hương trái ngọt cây lành.
KỶ nguyên tươi sáng như vầng nguyệt
HỢI nhật tuyệt vời tựa bức tranh.
BÌNH tĩnh kiên tâm vượt sóng gió
AN nhiên bền chí lập công danh.
PHƯỚC điền bồi đắp đầy ân tứ
HẠNH phúc vun trồng đẹp yến oanh.
Vinh Hồ
15/1/19
Chậu mai Nhật Bản chụp tại tư gia (Cali): ảnh Đỗ Văn Kình
CHÚC MỪNG KỶ HỢI BÌNH AN PHƯỚC HẠNH
Cẩn họa Chúc Xuân Kỷ Hợi của TH Vinh Hồ
Chúc nước Việt tôi biển núi xanh
Mừng trăm họ cuộc sống yên lành
Kỷ nguyên luôn sáng ngời như nguyệt
Hợi tiết mãi xinh đẹp tựa tranh
Bình lặng cuộc đời không bão táp
An thư phúc phận nổi tài danh
Phước tinh mang đến đầy ân trạch
Hạnh vận mùa Xuân yến với oanh.
Sông Hồ


CHÚT LỜI CHÚC TẾT
CHÚC một Xuân an, thịnh, phúc đầy.
TẾT về mai nở khắp nơi nầy,
KỶ nguyên tươi sáng, nhiều ơn đức,
HỢI tộc rạng ngời, lắm phước may.
GIA đạo yên bình trong lộc, hỷ,
QUYẾN bằng sức khoẻ trọn năm, ngày.
THỊNH tài, của cải cầu vừa đủ,
VƯỢNG ước cháu con luôn mãi vầy.

Quốc Thái
(Thơ vui)
Ung dung tự tại thích hò reo
Cái số anh Trư ai bảo nghèo?
Nghe gió Heo may về lạnh lạnh   
Là anh Trư đã ngáy ì xèo.
Canh rau cháo cám không đòi hỏi 
Nền đất chuồng tre chẳng ỉ eo.  
"Nói toạc móng heo" luôn khảng khái
"Thẳng như ruột ngựa" ghét vòng vèo.
Vinh Hồ
14/1/19

Thế Giới Trư
(Thơ vui)
Thế giới trư vui vẻ hồn nhiên
Cái máu "kia" không lụy chẳng phiền.
Mỗi tháng đôi lần "chơi tới bến"
Một ngày mấy cữ "ngủ là tiên". (1)
"Heo la con khóc" chồng đòi hỏi (2)
"Lợn nín con no" vợ chịu liền.
"Ông chả bà nem" yêu mến lợn (3)
Nhưng phim trư lại chửi cuồng điên.
Vinh Hồ
15/1/19
(1) Ăn được ngủ được là tiên (ca dao)
2) Đang khi lửa tắt cơm sôi
Heo la con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã cháy lên
Heo no con nín tòm tem thì tòm (ca dao)
(3) Ông ăn chả bà ăn nem (tục ngữ)

 mừng Tết Hợi.
(trư = ụt = heo = ỉn = sề = hợi)
2. Tết Đinh Hợi, đinh lăng nở trắng lăng Bà Vú.
Vế xuất của Người Xứ Vạn:
-Tết Kỷ Sửu kỷ nguyên sáng láng.

Nhiều vế đối của Vinh Hồ:
Xuân Giáp Thân giáp ngọc oai phong
Xuân Đinh Mùi đinh hương ngát thơm
Nhà Mai Quang mai núi ra vàng
Nhà Sông Hồ sông núi vây quanh
Hiên Đốc Văn đốc sự luận bàn
Thơ Hoa Văn hoa cúc thơm lừng
Chiều Ca Dao ca sĩ ca mùi
Chàng Văn Sanh văn sĩ đàn hay
Nhiều vế đối của Người Xứ Vạn:
Chàng VINH HỒ vinh nhục từng qua
Quê MAI QUANG mai nụ đâm chồi
Nhà SÔNG HỒ sông nước tràn lan
Huynh ĐỐC VĂN đốc thúc đồng hương
Thơ HOA VĂN hoa trái thơm lừng
Nhà VĂN SANH văn nhạc tưng bừng

1. Đón Tết Hợi "an cư lạc nghiệp".
Mừng Xuân Trư "bố đức thi ân".

2. Heo ụt ịt "thà ở chuồng lợn".
Lợn ù ờ "nói toạc móng heo".

3. Chớ "mượn đầu heo nấu cháo".
Đừng "lấy mũ nĩ che tai".

4. Gái khôn "mua heo chọn nái".
Trai khéo "lấy gái chọn dòng".

 5. Heo ủn ỉn, chú Ỉn gọi.
Lợn sồ sề, lợn Sề kêu.

6. Đón xuân heo, gió heo may thổi.
Mừng tết lợn, con lợn nọc đòi.

7. Xuân lợn chịu "thuốc ngon nửa điếu".
Tết heo ham "heo béo tận lông".
Tết trư mê "gái đẹp một con".

8. Tết lợn "đầu gà má lợn".
Xuân gà "đầu cánh phao câu".

9. Xuân heo "heo thả gà nhốt".
Tết lợn "lợn rọ chó thui".

10. Ăn tết lợn "lợn nhà gà chợ".
Giảng câu văn "văn mình vợ người"

11. "Cám treo heo nhịn đói" đừng có chảnh!
"Bèo trữ trư nhịn thèm" chớ chơi khăm!

12. Tết tới chớ "trông gà hóa cuốc".
Xuân về đừng "ném đá giấu tay".

13. Chả giò vẫn "lợn giò bò bắp".
Kẻ chợ thường "gạo chợ, nước sông".

14. Tết hợi chớ "tham vàng bỏ ngãi".
Năm heo đừng "thấy nguyệt quên đèn".
Xuân trư đừng "thấy đó bỏ đăng".

15. Xuân hợi gió heo may mát mẽ.
Tết heo cây cứt lợn te tua.

16. Năm tuất lỡ "treo đầu heo bán thịt chó".
Xuân heo đừng "ham phở tiệm quên cơm nhà".

17. Năm heo "treo đầu heo bán thịt chó".
Tháng chó "bán cầy tơ bảo cờ tây".

18. Hợi đến chớ "thấy người sang bắt quàng làm họ".
Heo về đừng gặp kẻ khó ngoảnh mặt quay lưng.

19. Năm heo chớ "rước voi giày mả tổ".
Tết lợn đừng "cõng rắn cắn gà nhà".

20. Xuân về "Dê cụ mê ăn so đũa".
Tết đến "Trâu già thích gặm cỏ non".

21. Xuân Kỷ Hợi thương " Đêm Kỷ Niệm". (Nhạc Ngân Giang)
Tết Tân Dậu nhớ :Ngày Tân Hôn".("La Novia" lời Việt; Phạm Duy)
Tết Đinh Mùi mở "Nhạc Đinh Hương". (album tên 'Soul') 

22. Xuân Kỷ Hợi xem trang kỷ yếu.
Tết Đinh Mùi thử rượu đinh lăng.
Tết Đinh Mùi ngắm chậu đinh hương

23. Tết Kỷ Sửu kỷ cương tốt đẹp
Xuân Giáp Thân giáp ngọc oai phong

24.  Xuân Kỷ Hợi nghe "Sắc Màu Kỷ Niệm". (nhạc Cung Đàn).
Tết Quý Mùi hát "Quý Lắm Chữ Tình". (nhạc Phạm Anh Cường)

25."Dòng sông kỷ niệm" Xuân Kỷ Hợi (nhạc Thu Hồ)
"Kỷ vật cho em" Tết Kỷ Mùi (nhạc Phạm Duy)

 Chậu hồng dẽo chụp tại Cali: ảnh Đỗ Văn Kình
Câu 7 : Năm lợn chịu “thuốc ngon nửa điếu" 
Tết Mùi mê “nhất gái một con"  
Câu 19 : Năm Heo “chớ rước voi giày mả tổ"
Tết Tỵ “kỵ cõng rắn cắn gà nhà"   
Câu đối vui của bạn Dương Chí Hướng:
-Xuân xưa, xài xa xỉ, xúng xính, xiêm, xe, xăm, xị, xào xập xám,
Xuân xong, xác xanh xao.
-Tết tới, tiêu tiện tặn, thôi thì, trà, tranh, thi, tữu, tập thể thao,
Tết tất, thân thanh thản.
Vế xuất: 
-Ăn Tết HỢI, BA CHỈ CHÂN GIÒ hầm sung sức; thấy NÁI TƠ, Lão TRƯ nổi LỢN lòng, đòi diễn trò con LỢN. (Dương Chí Hướng)
Vế đối:
-Hưởng Xuân Mùi, tái Dê ngọc dương tửu đủ đầy; ngắm nàng Be chúa Xồm dậy máu Dê , tính giở thói ba lăm. (Dương Chí Hướng)
-Đón Xuân MÙI,  MỘT CẶP SỪNG NGẮN húc hết ga, gặp DÊ CÁI, anh DƯƠNG nghe MÙI đó, đã nổi máu BA LĂM. (Vinh Hồ 12/2/19)
Vế xuất: 
-Tết Đinh Hợi, đinh lăng nở trắng Lăng Bà Vú (Vinh Hồ)
Vế đối: 
-Xuân Kỷ Mùi, kỷ tử tô hồng Viện Thái Y. (Dương Chí Hướng)
P/s : " Câu kỷ tử " là tên loại cây thuốc quý
 
Trái kỷ tử: nguồn NET

Cám ơn bạn Dương Chí Hướng đã tìm ra các chữ: ngọc dương, kỷ tử và nhiều chữ mới để đối rất hay. (Vinh Hồ)
  
    Ảnh Cầu Nguyễn
XUÂN  THA  HƯƠNG
Bao năm đất khách Tết tha phương
Mỗi độ Xuân về nhớ cố hương
Kẻ ở , sầu vương bao cảnh vắng
Người đi , khắc khoải mỗi đêm trường
Đêm nghe tiếng nhạc quên nhung nhớ
Ngày tỉnh cơn say thấy vấn vương
Tuyết lạnh chiều Đông miền viễn xứ
Xuân về cảm thấy thiếu yêu thương .
        Cầu Nguyễn
         Xuân Kỷ Hợi 2019
Ảnh Cầu Nguyễn
XUÂN QUÊ HƯƠNG
Năm nay ăn Tết ở quê ta
Một nửa đời người Tết xứ xa
Đất khách bôn ba tìm cuộc sống
Quê nhà họp mặt thấy nhàn ra
Cháu con tề tựu bên mâm cỗ
Đợi đón giao thừa ngắm pháo hoa
Tuyết vẫn rơi đầy nơi đất khách
Xuân này vui lắm Tết quê ta .
Cầu Nguyễn 
Xuân Kỷ Hợi 2019
Ảnh Cầu Nguyễn
CẢNH NHÀ
Chẳng phải non bồng chẳng cõi tiên
Ba gian nhà nhỏ thú điền viên
Cây si năm chậu xanh bên cửa
Lan quý mười dò ngát trước hiên
Sớm sớm chăm cây lòng sảng khoái
Chiều chiều ngắm cảnh dạ bình yên
Chan hòa cuộc sống vui chân thiện
Chẳng phải non bồng chẳng cõi tiên .
Cầu Nguyễn
(01/01/2019)
Ảnh chụp tại Cali: Đỗ Văn Kình
PHONG CẢNH NHÀ AI
(Họa thơ thi hữu Cầu Nguyễn)
Nhà ai phong cảnh đẹp như tiên
Cầu thủy tạ băng qua trúc viên.
Non bộ mấy hòn bày trước cửa
Bon sai nhiều chậu đặt bên hiên.
Thế huyền nhai ngắm lòng thư thái
Dáng phụng vũ nhìn tâm tịnh yên.
Sức sống thiên nhiên kỳ diệu quá!
Nhà ai phong cảnh đẹp như tiên.
Vinh Hồ
10/2/19
TÌNH BẠN
Bạn hữu thường xuyên ghé đến nhà
Bạn mê cây cảnh, thích thơ ca
Bon sai , tiểu cảnh, tay làm được
Dáng thế , hòn non, tự tạo ra
Thơ phú, văn chương, cùng xướng họa
Một trà, một rượu, với trăng hoa
Sáng ngày ngắm cảnh vui ngâm vịnh
Tình bạn xưa nay vẫn đẹp mà
* Thân tặng anh Vinh Hồ *
Cầu Nguyễn
(Tết Dương Lịch 2019)
CHÚC XUÂN 2019
Trời Tây - cảnh đẹp nên thơ
Chạnh lòng viễn khách - đón chờ Xuân sang
Tuyết rơi - rồi tuyết lại tan
Vui Xuân - rồi lại nhớ sang Xuân nhà
Xin chúc các bạn phương xa
Một Năm Mới đến - chan hòa niềm vui
Gia đình - Hạnh Phúc - Vui Tươi
Phát Tài - Hưng Thịnh - người người Bình An
Trời Tây chẳng có mai vàng
Tuyết thay mai trắng vẫn sang như thường .
* Cầu Nguyễn *
(Tết Dương Lịch 2019)
Nối thơ:
Trời Tây chẳng có mai vàng
Tuyết thay mai trắng vẫn sang như thường
Cầu Nguyễn
Bạn ơi Tết ở viễn phương
Sao bằng Tết ở quê hương Ninh Hòa
Anh em ly rượu tách trà
Tấm lòng cởi mở đậm đà tình thân.
Vinh Hồ
29/12/18
HOA MAI 
Đông tàn - lá cũng rụng theo
Tích dồn nhựa sống - nụ đeo trên cành
Gió Xuân - thổi nhẹ qua mành
Sáng ra hoa nở - đầy cành vàng tươi
Chúa Xuân - về với mọi người
Hồn Xuân trong mỗi nụ cười hoa mai .
Cầu Nguyễn
***
Hồn Xuân - trong cánh mai vàng
Phải chăng Xuân sắc - ẩn tàng đâu đây .
***
Đông tàn - Xuân đến rồi đây
Chúc cho anh chị - Lộc đầy - An Khang
Gia đình - Hạnh Phúc - Giàu sang
Một năm Kỷ Hơi - ngập tràn Niềm Vui .
* Cầu Nguyễn *
Xuân Kỷ Hợi

Ảnh chụp tại Cali: Đỗ Văn Kình
CÀNH MAI
Hôm qua hoa tuyết rơi rơi
Rừng trơ cành đứng chơi vơi bên đường
Sáng nay vườn ngập mù sương
Cành mai hé nụ vô thường trên sân
Thanh cao xinh đẹp vô ngần
Khí tiết quân tử, tinh thần kim cương
Chúa xuân kỳ diệu lạ thường
Ban tình thương với sắc hương trọn đầy.
Vinh Hồ.
Chúc Tết
Giao thừa vừa đến đâu đây
Chúc bon sai ngọc, chúc cây kiểng vàng
Chúc anh chúc chị bình an
Căn nhà đầm ấm đầy tràn phước ân.
Vinh Hồ


Điềm Ca gởi tặng:
Bài 1 :
CHÚT QUÀ QUÊ HƯƠNG
Kính tặng Vinh Hồ nhân ngày trở lại Orlando
Sinh ra ở đất NINH HOÀ
Sự đời thay đổi sang qua xứ người
Chín ngàn đêm nỗi khóc cười
Quê hương gặp lại ba mươi mấy ngày
Đông về bấc thổi chia tay
Tiễn đưa, đưa tiễn nỗi này ai vui ?
Không rơi lệ cũng ngậm ngùi
Quê hương xẻ chút ngọt bùi quê hương .
ĐIỀM CA
Bài 2 :
NHẶT BÓNG CHIỀU XƯA
Xứ phủ Ninh Hòa đã sản sinh
Ngôi sao văn học rạng sông Dinh
Câu thơ phóng bút hồn non nước
Cuộc rượu giao bôi chuyện nghĩa tình
Hai chục năm qua bờ chướng ngại
Bảy mươi tuổi quá ải phồn vinh
Quê hương canh cánh lòng xa xứ
Nhặt bóng chiều xưa trúc cựa mình.
 ĐIỀM CA
Ảnh: Đỗ Văn Kình
MỪNG TUỔI BẢY MƯƠI HAI
Bấm tay nhẩm tuổi bảy mươi hai
Kỷ Hợi năm nay số quạnh tài
Vợ Cả vợ Hai hai vợ cả
Con Trai con Một một con trai
Tứ thời ý nguyện dân an lạc
Vạn kỷ đêm cầu quốc thái lai
Tết có khách mừng vui chúc rượu
Bằng không ngày tối cửa then gài .
ĐIỀM CA
MỪNG ĐIỀM CA THỌ BẢY MƯƠI HAI
Họa thơ thi hữu  Điềm Ca
"Thất thập cổ lai hi" cộng hai
Năm Trư tuổi Tý phát thi tài. 
Năm con một vợ nhờ con vợ
Hai gái ba trai cậy gái trai.      
Muôn việc hanh thông do đức sáng
Vạn điều may mắn bởi thời lai.
Một đời bái phục cành Mai thắm (1)
Bầu ruợu túi thơ cổng chẳng gài.
Vinh Hồ
(1) Mượn ý câu thơ "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa." của Cao Bá Quát (Một đời cúi đầu bái phục hoa mai)


CÂU ĐỐI :
Vế xuất : ( Vinh Hồ )
Trư ụt ịt, heo ủn ỉn, lợn sồ sề;  ụt, ủn, sề cùng mừng Tết Hợi .
Vế đối : ( Điềm Ca )
Tề nghịch ngợm, khỉ khọt khẹt, hầu múa máy ; ngợm, khọt, múa rủ đón Xuân Thân .
Vế xuất : ( Vinh Hồ )
Tết Đinh Hợi, đinh lăng nở trắng Lăng Bà Vú .
Vế đối : ( Điềm Ca )
Xuân Tân Mùi, Tân Trúc trồng xanh trúc Thủy Đầm .
Ghi chú :
-Tân Trúc : tên thôn Tân Trúc thuộc xã Ninh Xuân , TX Ninh Hòa .
- Thủy Đầm : tên thôn Thủy Đầm, xã Ninh Thủy , TX Ninh Hòa .
***
BÀI THƠ 
XƯỚNG HỌA THƠ XUÂN KỶ HỢI
Xướng vận liên hoàn (Mời họa )
HỘI TRÙNG LAI
Ninh hòa chưa phủi nợ trần ai
Bầu bạn say thơ bỏ cửa gài
Bảy chục tuổi già hai cuộc sống
Năm mươi năm trẻ một thời trai
Hồn thiêng sông núi cao thăm thẳm
Chí khí ông cha quyết miệt mài
Kỷ Hợi xuân về xuân lại tận
Vầng trăng thao thức tỉnh hồn mai .
                    
Vầng trăng thao thức tỉnh hồn mai
Ngày tháng trôi bao tiếng thở dài
Lối cỏ xác xơ bờ cỏ úa
Vườn thu tàn tạ lá thu phai
Lửa thù nung náu người chia lửa
Vai gánh hoàng hôn bóng sánh vai
Thuyền cũ bến xưa hai nỗi đợi
Cuối trời mây nước hội trùng lai
ĐIỀM CA

XUÂN KỶ HỢI CẢM TÁC
Họa thơ Điềm Ca
Vinh nhục một đời ta với ai
Nghêu ngao thơ rượu cửa quên gài.
Bao thu sinh tử sầu quan tái
Mấy hạ tù đày hận kiếp trai.
Lúc bỏ lên non sống ẩn dật
Khi ra hải ngoại ráng dùi mài.
Ơn Trời bảy bốn mùa xuân thắm   
Vui thú cùng cây cỏ tuyết mai.

Vui thú cùng cây cỏ tuyết mai
Bóng chiều đã ngả trên đường dài.
Thời gian vùn vụt hoa tàn héo
Thế sự thăng trầm sắc nhạt phai.
Giũ áo về vườn tròn khí tiết
Từ quan lên rẫy nhẹ đôi vai.
Thanh nhàn ngắm trúc lan xem nguyệt  
Nghe gió đùa "Xuân bất tái lai". (*)
Vinh Hồ
15/3/19
(*) Xuân bất tái lai: Xuân không trở lại, ý nói tuổi xuân đã qua thì không bao giờ trở lại.

Mộc mạc dễ thương mấy chú heo
Vui chơi thoải mái chẳng kì kèo.
"Rau heo cháo chó" tha hồ xực
"Mèo mả gà đồng" mặc sức leo.
Ủi bãi liên tu chơi tới bến
Đóng tuồng bất tận sợ chi đèo
Cặp chân chữ bát thêm xà bát
Ở giữa thanh thiên cứ muốn trèo.
Vinh Hồ
6/1/2019
Lợn sề, lợn nọc, đốm, nưa, bông...
Bố trí chật ngoài tới chật trong. 
Kiệu kiệu kênh kênh ngồi bảnh chọe
Hùng hùng hổ hổ đứng oai phong.
Đẩy xô chú ỉn chân đang trói
Ủi báng anh trư mõm bị còng.
Ngoài cổng rắn trăn bò lổn ngổn
Trong chuồng vô cảm chẳng đề phòng.
Vinh Hồ
6/1/2019
Cái số anh Trư sướng nhất đời
Năm dài tháng rộng chỉ ăn chơi.
Trứng gà trứng ngỗng cô lo hết
Chuyện nọ chuyện kia chủ gọi rồi.
Ủi bãi bỏ xa các đối thủ
Nằm sàn chẳng ngán đám ma trơi.
Phục phà lúc lắc đi không nỗi
Nhưng vẫn kêu đòi vẫn ỉ ôi.
Vinh Hồ
6/1/2019
Đi mô cũng gặp đám heo bông
Béo trục béo tròn béo tận lông.
Hạch sách đủ điều không sống nỗi
Hăm he nhiều kiểu hết mơ mòng.  
Mặt mày bậm trợn nhìn là sợ
Tướng mạo dữ dằn thấy muốn dông.
Hương xạ nặc nồng chân quỷnh quỷnh
Đằng đằng sát khí lưng cong cong.
Vinh Hồ
6/1/2019
Ăn no ngủ kỷ ngáy ì xèo
Sung sướng nhất đời mấy chú heo.
Cháo cám cô nhà đổ ngập máng
Mối mai ông chủ đã "sen meo".
Trăng hoa dơi chuột nhiều nơi bám
Mèo mỡ gà đồng lắm chỗ đeo.
Sống hết mình và yêu chết bỏ
Hiện sinh từng phút ai bằng heo?
Vinh Hồ
6/1/2019

Thơ Vịnh Con Heo
Mười hai con giáp khó so bì
Nhàn hạ vô tư nhất địa chi.
Đít thớt đầu chày táp phập phập
Mặt mâm cổ nọng ngáy khì khì.
Phục phà phục phịch ham vui dữ
Lúc lắc lúc la đếch cữ chi.
Hiền hậu, sống hết mình, dễ tánh
Nhưng đời cho cái kết ai bi.
Vinh Hồ
6/1/2019
Cục mịch ù lì khoái tính tang
Lim dim mắt lợn sống bàng quan.
Cám treo no đói không cần biết
Hùm nhập tồn vong chẳng ngó ngàng.
Thích nhảy đùi căng má sệ sệ
Ham vui cổ bự mỡ đầy tràn.
Mặc ai sống chết lo thân trước
Ô nhục làm tôi mọi hổ lang.
Vinh Hồ
6/1/2019
Lợn sề lợn nái bu theo đông
Heo nọc cả chuồng tôn chúa công.
Dáng điệu dị thường mắt trắng dã
Tướng tinh hung dữ lưỡi dài hồng.
Tưa tưa nước dãi hàm dài nhọn   
Dựng dựng lông lưng nanh bén cong.   
Tự đại, kiêu kỳ và dữ tợn
Lợn sề lợn nái bu theo đông.
Vinh Hồ
6/1/2019
 
Chú Ụt
Ụt ịt ù ờ lại ỉ eo
Kêu la inh ỏi quậy ì xèo.
Ăn chơi bạt mạng như dê chúa   
Ngủ nghỉ tối ngày tựa cú mèo.
Háo sắc Bát Trư còn lận đận
Gặp thời Trạng Lợn lên vèo vèo.
Được chồng được vợ nhờ mâm lợn
Cúng thánh cúng thần cậy thủ heo.
Vinh Hồ
6/1/2019

Hồn Nhiên Mấy Chú Heo   
Vui vẻ hồn hiên mấy chú heo
Suốt ngày ăn ngủ mặc giàu nghèo.
Không lo trở gió khi đau bệnh
Chẳng sợ tắt đèn lúc đói meo.
Chẳng luận anh hùng khi xuống vực
Không màng danh lợi lúc lên đèo.
Hiện sinh từng sát na đời sống
Vui vẻ hồn hiên mấy chú heo.
Vinh Hồ
 
Vịnh Bác Trư   
Có ai như các bác Trư tôi
Rào giậu trong vườn ủi tới nơi.
Cổ nọng vai u mắt liếc liếc
Mặt mâm má sệ tay bơi bơi.
Tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ
Suốt tháng ngồi không hưởng với chơi.
Bụng phệ đùi to đi lạch bạch
Chân chiêu đầu chúi bước bời rời.
Vinh Hồ
8/1/19
         
Chúa Trư     
Heo nọc tự xưng là chúa công  
Lợn sề lợn nái đeo bên hông.
Hăm he nạt nộ con lưng gãy
Hạch sách thị uy bác móng long.
Hoạnh họe chú heo rừng mõm cột
Răn đe em lợn bột chân còng.
Ngoài bờ giậu cọp beo gầm rống
Bất biết vua Trư ngủ chổng mông.
Vinh Hồ
6/1/2019

Đàn Heo
Trong vườn cam bưởi quít sum sê
Béo nhất đàn heo ai dám chê?
Chạy nhảy vui đùa cùng mẹo dậu
Ra vào thân thiện với trâu dê.
Trại chuồng rộng rãi nằm khoan khoái
Cám tấm ê hề ăn phủ phê.
Cô chủ hiền từ yêu mến lợn
Rờ đầu gãi bụng mỗi khi về.
Vinh Hồ
8/1/2019
  Cảm thương dòng họ Trư
Lợn lòi mắc bẫy tay chân tó
Heo mọi héo sầu mồm miệng rọ.
Lợn cấn lợn lang đợi chuyến xe
Heo nưa heo đốm chờ giờ ngọ.
Hiền lành gánh chịu bấy oan khiên
Ngay thẳng vương mang bao khốn khó
Giọt lệ cảm thương dòng họ Trư
Cuối đời bi đát như con chó?
Vinh Hồ
8/1/2019
Giao Thừa   1
Cẩn họa bài thơ "Xuân An Lành" của Sư Thầy Trúc Nguyên
Cành sứ am mây gió lắt lay
Giao thừa lành lạnh khói sương đầy.
Hoa đào chúm chím Xuân vừa tới
Thược dược nở bung Tết tái lai.
Một tiếng chày kình chánh niệm hiện
Hai hồi bát nhã chân như bày.  
Trà Thiền thơm ngát hương cô tịch   
Lặng lẽ lối quỳnh Sư ngắm mai.
Vinh Hồ
18/1/19
 
XUÂN NGHÈO
THOẮT CÁI MÀ NAY TẾT ĐÃ GẦN
XÓM LÀNG RỘN RÃ ĐÓN MỪNG XUÂN.
NGƯỜI THÌ VỘI VÃ ĐI MAY ÁO
MÌNH LẠI LUI CUI ĐỨNG VÁ QUẦN.
BẠC ÍT BÀ CON KHÔNG ĐẾN VIẾNG
TIỀN NHIỀU CÔ BÁC LẠI VÀO THĂM.
NĂM NAY TẾT ĐẾN KHÔNG GÌ THẾT
CHỈ CÓ BÀI THƠ ĐỂ CHÚC MỪNG.
 Công Tấn
TẾT TÙ
Họa thơ thi hữu Công Tấn
Tết tù hồi tưởng bạn xa gần
Bốn thập kỷ rồi mỗi dịp xuân
 Thằng đói lã chơi cờ đợi bữa
Đứa siêng năng vá áo khâu quần
Rừng thiêng nước độc mây lui tới
Biên giới đèo heo gió viếng thăm
Mùng một được chia miếng thịt lợn
Mơ ngày đoàn tụ xiết bao mừng.
Vinh Hồ
29/12/18
Tết về gợi nhớ
Tết về gợi nhớ nhớ bâng khuâng
Nhớ dáng cao sang dạo phố xuân.
Nhớ mái tóc thề thơm chiếc nón
Nhớ tà áo trắng đẹp toàn thân.
Nhớ đêm hò hẹn cầu tre nhỏ
Nhớ buổi chia ly tiếng súng gần.
Biền biệt kẻ vào tù khổ ải
Người gieo neo giữa cuộc xoay vần.
Vinh Hồ
30/1/19
Cảnh Tết trong tù
Cảnh Tết nào xa xót đoạn trường
Mùa Xuân nào héo hắt thê lương.
Thằng đau bò lết qua khe nước    
Đứa mạnh buông xuôi ở giữa đường.
Đứa sống không chôn nỗi đứa chết
Thằng đi chẳng có được cây hương.
Tìm chồng vạn dặm sầu như liễu
Trại chẳng cho thăm giọt lệ vương.  
Vinh Hồ
30/1/19
Tết về ngồi khóc
Tết về ngồi khóc một mùa buồn
Doanh trại hàng hàng cận lán buôn.
Ông Đạo con lên thăm bị hiếp
Chú Nhân vợ bỏ giã từ luôn.
Cậu Văn xiềng xích nơi hầm tối   
Thằng Đức trối trăn mắt lệ tuôn.
Trời đất tối tăm chim cú gọi
Dượng Thi tay đã bắt chuồn chuồn.
Vinh Hồ
30/1/19
Trại tù xuân đến
Trại tù xuân đến càng thêm sầu
Rừng núi thêm thâm u dãi dầu.
Bấc thổi căm căm mờ hải giác
Phùn bay lạnh lạnh tím giang đầu.
Áo bao cát rách trên bong dưới
Giường nứa tre long trước lỏng sau.
Thao thức canh tàn nghe tiếng vượn
Đời tù xuân đến càng thêm sầu.
Vinh Hồ
30/1/19
Tết tại tù
Một ngày bằng cả một mùa thu (1)
Thời khắc ngừng trôi Tết tại tù.
Khỏi vác lồ ô đào cổ thụ
Được ăn thịt lợn nấu la gu.
Khỏi nghe cán bộ khung lên lớp
Được dự buổi văn nghệ đặc thù.
Buổi sáng sương mù, chiều khói phủ
Đêm nghe vượn hú, rừng thâm u.
Vinh Hồ
30/1/19
(1) Mượn ý câu "Nhất nhật tạu tù thiên thu tại ngoại" 
Xinh đẹp áo bà ba
Đậm chất miền Tây cây, trái, hoa
Xuân về xinh đẹp áo bà ba.
Căng tròn bộ ngực đầy khêu gợi       
Ôm kín vòng eo quá thiết tha.
Thoang thoảng hương đồng thơm mái tóc
Phất phơ gió nội trắng làn da.
Cầu tre lắt lẻo nghiêng nghiêng nón
Xao xuyến lòng ai sông nước xa.
Vinh Hồ
29/12/18
Khêu gợi chiếc áo dài
Quyến rũ kiêu sa chiếc áo dài
Diễm kiều khêu gợi nét trang đài.      
Gió nồm hất nhẹ đôi tà áo
Hương bưởi thơm lừng sợi tóc mai.
Xuống phố dáng tiên vừa lộ hiện
Qua cầu thân ngọc bỗng phơi bày.
Hớp hồn hai nửa kín và hở
Tha thướt cao sang đẹp gót hài.
Vinh Hồ
5/2/19
Chúc Xuân 1
TÂN niên ngàn cốc rượu thơm nồng
XUÂN đến vạn lời chim hót trong.
CẦU kiến tánh minh tâm thịnh mậu
CHÚC an cư lạc nghiệp hanh thông.
VẠN điều phức tạp hoàn thành hết
SỰ việc nhiêu khê giải quyết xong.
NHƯ thể đường đời bằng phẳng cả
Ý tình chan chứa thỏa chờ mong.
Vinh Hồ
5/2/19
Khai bút sáng mùng một Tết
Chúc Xuân 2
NĂM tàn tháng tận tiết đông qua
MỚI mẽ nàng xuân viếng mọi nhà
CHÚC tụng muôn người một chữ hỷ
MỪNG cho vạn vật triệu lời ca
HẠNH dung gồm đủ ngời tâm ngọc
PHÚC lộc thừa dư rạng ý ngà
CHAN chứa lòng từ bi, hỉ xả
HÒA vui đàn nhị rộn âm ba.
Vinh Hồ
5/2/19
Khai bút sáng mùng một Tết
Vườn mộng
       Vườn mộng có em bỗng hóa thơ        
Sinh sôi nẩy nở đẹp vô bờ.
Mít xoài kết trái ong lui tới 
Vải nhãn ra hoa bướm lượn lờ.     
Vú sữa chín cây oằn nhánh đợi
Mãng cầu mở mắt trĩu cành chờ.
Ngắm nhìn cây cỏ hồn thanh thản
Nghe tiếng chim kêu xanh ước mơ.
Vinh Hồ
30/1/19
Vườn em
Bùa mê thuốc lú vào vườn em
Hồn lạc phách xiêu đứng trước rèm.
Dòng suối thơm tho mê mẩn ngắm
Ngọn đồi xinh đẹp tịnh yên xem. 
Bức tranh lập thể phô đường nét
Vũ khúc nghê thường điểm sắc kem.
Chết lịm vần thơ hồn chếnh choáng
Rượu tình chưa uống đã say mèm.
Vinh Hồ
7/2/19
Cảnh sắc hoang sơ
Ngẩn ngơ trước cảnh đẹp vô bờ 
Lạc bước vào vườn em sững sờ
Chín bói trên cành xoài ổi nhản
Xanh um dưới lá bưởi cam bơ.
Yến oanh tụ tập cùng ca múa
Sáo cưởng say mê xướng họa thơ.
Có tiếng thở dài từ góc khuất
Hồn ta bay bổng lạc vào mơ.
Vinh Hồ
7/2/19
Về với mảnh vườn
Giũ áo quay về với mảnh vườn
Có em ngày tháng ngập yêu thương.
Đỏ âu chùm vải đong đưa gió
Trắng muốt hoa ngâu thoang thoảng hương.
Sai quặc me xoài chờ nắng hạ
Chín mùi ổi nhản đợi tà dương.
Rộn ràng khướu hót, oanh kêu bạn
Cảnh sắc thiên nhiên đẹp lạ thường!
Vinh Hồ
8/2/19
Về với thiên nhiên
Buông hết trở về với thiên nhiên
Vui cùng cây cỏ ngắm điền viên.
Ngêu ngao bàu vịnh thương Khương Thượng
Chiêm ngưỡng sơn lâm nhớ Bát Tiên.
 Cỡi gió đi mây hồn khoáng đạt
Ngâm hoa vịnh nguyệt dạ an nhiên
Có em đời đẹp như tranh tượng
Ngày tháng rong chơi sớm tối thiền.
Vinh Hồ
9/2/19
Đứng trước vườn em
Em còn hái trái mơ hiên tây
Đứng trước vườn em dạ ngất ngây.
Hoa cúc chào mừng chúm chím nụ
Chim di tụ tập hót vang cây.
Cành đào vẫn nở trong băng giá
Khóm trúc đang xanh giữa tuyết dày.
Sương khói đầy trời xuân lãng mạn
Chén quỳnh chưa nhắp hồn say say.
Vinh Hồ
9/2/19
Mùa Xuân GK 3
Xuân về trên trại GK 3
Bấc thổi phùn bay cắt thịt da.
Nơi vọng gác đằng đằng sát khí
Chỗ tường cao lạnh lạnh tha ma.
Giao thừa ai bỏ đời sầu thảm
Mùng một ai lên cơn hoảng la. 
Ngoài cổng không cho thăm với viếng
Tường cao mưa đổ lệ ai nhòa.
Vinh Hồ
12/2/19
Tết GK 3
Tết nào em đến GK 3
Xuân Lộc hoang tàn cuộc chiến qua.
Kìa chiếc tăng hư nằm đại lộ
Nọ cây cầu gãy buồn sân ga.
Tìm đường đến trại bao công khổ
Gánh gạo thăm chồng vạn dặm xa.
Nhưng trại vẫn khước từ. Lệ rớt 
Tường cao vẫn bạc thếch mưa sa.
Vinh Hồ
12/2/19
Tù không bản án
Giã từ Bà Rịa biển mù khơi
Buổi sáng ta như chết nửa người.
Bị đẩy lên ba lua bịt kín
Bị lùa đến trại tù xa xôi.
Tương lai khép lại diều bay lượn
Tử địa mở ra cú rúc hời
Nước độc rừng thiêng đêm bất tận
Tù không bản án phó cho Trời.
Vinh Hồ
12/2/
Tù binh
Chiều ấy tôi bàng hoàng đớn đau
Hai tay trói thúc ké ra sau
Năm thằng một sợi dây chung cuộc
Hai khẩu liên thanh chỉa thẳng đầu
Chân bước liêu xiêu trên đá sỏi
Súng kèm áp giải tận rừng sâu
Đời tù chết sống Trời cao biết
Thù hận bủa vây đất thảm sầu.
Vinh Hồ
13/1/19
Ngày mất Phước Tuy
Nửa đêm đạn pháo nổ đoòng đoòng
Ngày mất Phước Tuy ruột héo hon.
Chồng bị bắt đưa vào Phước Lễ
Vợ di tản chạy về Sài Gòn.
Bên thua cuộc sẩy đàn tan nghé
Phía bắc quân tràn núi ngập non.
Giọng sắc như dao đang áp tải
Ta đi giữa họng súng đen ngòm.
Vinh Hồ
14/2/19
Từ đó lao tù
Mất Phước Tuy, tay bị trói gô
Tù đày từ đó bước chân vô.
Rừng sâu thời chiến mờ binh lửa!
Núi thẳm hôm nay lạnh nấm mồ?
Hai thập kỷ thành người chiến bại
Nửa đời người chịu kiếp lao nô.
Quê nhà cha mẹ già trông ngóng 
Chẳng biết thằng con giờ ở mô?
Vinh Hồ
14/2/19

Lao động khổ sai
Chở về Xuân Lộc, GK 3  
Từ khám Phước Tuy nỗi xót xa
 Chuyển đến Trại Long Giao đất đỏ
 Đày lên Bù Gia Phúc rừng già
Tập trung "cải tạo" cây thành khói
Lao động "vinh quang" xương bọc da
Người sống chỉ còn hai hốc mắt
Lom khom trên rẫy bước như ma.   
Vinh Hồ
15/2/19
Gánh gạo đưa chồng
Vì đâu em lặn lội thân cò?
Gánh gạo đưa chồng vạn khổ lo (1)
Dặm thẳm đường xa qua mấy ải
Sông sâu bến vắng vượt bao đò.
Rừng già ngại sói tru hùm rống
Trảng lớn e cu gáy khỉ ho.
Chung thuỷ giữa dòng đời nghiệt ngã
Đêm về sầu héo mối tơ vò.
Vinh Hồ
16/2/19
(1) Mượn ý câu ca dao:
Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Bơ vơ nơi xứ người. 
Năm năm xuất giá chồng vào tù
Lưu lạc bơ vơ nơi xứ người.  
Chẳng họ hàng nương nhờ đất lạ
Không con cái thấm thía lời ru.
Chiến tranh phải sống đời chinh phụ
Tàn cuộc lại làm kiếp vọng phu.
Dài cổ mong chờ ngày tái ngộ
Thế nhưng Thu vẫn Thu rồi Thu.  
Vinh Hồ
17/2/19
Phận má hồng
Chìm nổi truân chuyên phận má hồng
Từ khi em xuất giá theo chồng.
Long Điền Đất Đỏ thân phiêu bạt
Bờ Đập Cống Dầu mạng suýt vong.
Khói lửa trải nhiều phen chết sống   
Hòa bình thêm lắm nỗi long đong.
Kẻ vào tù nhỏ, người tù lớn   
Thương cánh bèo trôi giạt giữa dòng.
Vinh Hồ
17/2/19
Thư từ trại tập trung
Từ vùng biên giới Bù Gia Phúc
Thư gởi về em Long Đất xa 
Ngoài trại không mong ngày tái ngộ
Trong tù chẳng biết lúc nào ra.
Cho nên đừng đợi trong vô vọng
Và cũng quên đi những xót xa.
Xin hãy xem người tù đã chết
Quyết tìm đất sống vượt phong ba.
Vinh Hồ
18/2/19
Tổ đình Thiên Bửu duyên kỳ ngộ
(Gặp cô nữ sinh Đoàn Thủy Tiên nên duyên chồng vợ)       
Rớt tú tài về nương cổ tự
Bốn mùa đạm bạc muối tương dưa.
Đánh chuông gõ mõ nghe kinh kệ
Tưới kiểng chăm hoa ngắm hạc rùa.
Ngày Giỗ Tổ giai nhân viếng cảnh  
Tết Nguyên Tiêu thiếu nữ thăm chùa. 
Bên gốc me già trước giậu thưa.
Vinh Hồ
19/2/19
Chùa Thiên Bửu tại Điềm Tịnh có gốc me ngàn tuổi: ảnh chụp năm 1990
 Chú Tiểu Chùa Thiên Bửu   
Thiền môn lặng lẽ tháng ngày qua
Em đến thăm chùa  đẹp thướt tha.
Gò má đỏ âu chùm mận chín
Áo dài trắng xóa áng mây xa.
Tàn me buổi sáng xanh rờn lá
Cây sứ chiều tà thơm ngát hoa.
Chú tiểu ngày kia rời cổ tự
Theo em đi suốt cõi ta bà.
Vinh Hồ
20/2/19
Cây sứ chùa Thiên Bửu: Ảnh chụp năm 2018: Vinh Hồ
 Thiên duyên tiền định 
Hương lộ quanh co ngọn gió đùa
Mười cô áo trắng đi thăm chùa.
Đàn cò ghễnh cổ nhìn mây nước
Đồng lúa trổ bông đợi gió mùa.
Chánh điện mỹ nhân cầu phước lộc
Nhà đông chú tiểu đãi cơm trưa.
Đâu ngờ hội ngộ duyên tiền định
Say đắm hồn ai trước giậu thưa.
Vinh Hồ
20/2/19
Hoa Thủy Tiên
Mười cô áo trắng viếng am Thiền
Đẹp nhất là em hoa Thủy Tiên.
Mái tóc đen dài buông óng ả  
Đôi tà kín hở khép ngoan hiền.
Môi cong hờn dỗi lưng ong chúa
Má đỏ hây hây mặt chữ điền.
Dáng dấp đẹp, cao sang, quyến rũ
Yêu em từ vạn thuở tiền duyên.
Vinh Hồ
20/2/19
  Từ lúc em về  31
Từ lúc em về thăm cửa Thiền
Sáng chiều đàn sáo hót huyên thuyên.
Cây me tán gạo thêm tươi tắn
Bến nước dòng sông hết muộn phiền.
Tri kỉ ngay lần gặp thứ nhất
Yêu em từ cái nhìn đầu tiên.
Phải chăng em hiện thân Bồ tát?
Sẽ giúp ta trong cuộc đảo điên.
Vinh Hồ
20/2/19
Cổ tháp Bửu Dương, tổ khai sơn chùa Thiên Bửu. Ảnh: Trầm Lệ Ý
Dấu chân ngọc nữ
Từ lúc Thiền môn in dấu chân
Ngày đêm chú tiểu cứ bâng khuâng.
Dòng sông bến nước mơ hồng diện
Lối kiểng sân hoa mộng ngọc thân.
Dài cả cổ chờ trong ảo vọng
Mòn con mắt đợi giữa phù vân.
Thương tà áo trắng mờ sương khói
Nhớ mái tóc thề vương nắng xuân.
Vinh Hồ
21/2/19
Ôi chiếc áo dài
Ôi chiếc áo dài không thể quên
Đôi tà úp mở trắng trinh nguyên.
Phơi bày dáng ngọc ngà kiều diễm
Khêu gợi thân tiên nữ dịu hiền.
Sang trọng thướt tha trên thảm cỏ
Đoan trang thùy mị giữa công viên. 
Kiêu sa quý phái nhưng đơn giản
Quyến rũ đam mê lại chính chuyên.  
Vinh Hồ
22/2/19
Giữa chốn ba quân
Ngày mãn khóa sinh viên sĩ quan
Giữa ba quân thiếu nữ tìm chàng. (1)
 Em ngồi trên khán đài xinh đẹp
Tôi đứng trong hàng quân rỡ ràng.
Khung cảnh thật hào hùng lãng mạn
Phút giây đầy lẫm liệt hiên ngang.
Buổi chiều tôi dẫn em đi biển
Từng cánh hải âu hàng nối hàng.
Vinh Hồ
23/2/19
(1) Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giiữa chốn ba quân. (ca dao)
 Sau ngày mãn khóa
Sau ngày mãn khóa ra sa trường
Em tiễn tôi đi một đoạn đường.
Vẫn mái tóc thề bay trước gió     
Vẫn tà áo trắng lượn trong sương.
Ủi an mà mắt em nhòa lệ     
Khuyên nhủ nhưng lòng tôi đoạn trường . 
 Mờ mịt biết ngày nào trở lại
Bóng em dần khuất dưới hàng dương.
Vinh Hồ
23/2/19
Chú tiểu theo em
Mưa không kiềm toả lưu chân khách
Sắc chẳng ba đào đắm thế nhân. (1)
Ngày Tết Thiền môn em đến viếng 
Đầu năm chú tiểu lòng bâng khuâng.
Gốc me ngàn tuổi còn đương nụ
Cây sứ trăm năm vẫn dáng xuân. 
Chú tiểu ngày kia rời cổ tự
Theo em đi suốt cuộc hồng trần.
Vinh Hồ
2/19
1) Mượn ý 2 câu thơ cổ:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách 
Sắc bất ba đào dị nịch nhân

Chú tiểu Theo em 2 
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Chỉ một sác na nhớ vạn đời
Ngày Tổ khai sơn em xuất hiện 
Cửa Thiền chú tiểu lòng bồi hồi
Chim trời bến hạ bay từng cặp 
Câu đối tiền đình chạm đủ đôi
Chú tiểu chiều nao rời cảnh Bụt
Theo em qua mấy nẻo luân hồi.
Vinh Hồ
2/19
(1) Mượn ý 2 câu thơ cổ:
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, 
Vô duyên đối diện bất tương phùng.

Chú tiểu rời Thiên Bửu
Chỉ một lần em đến cửa Thiền
Mà ba thu chú nặng niềm riêng.
Dung nhan xinh đẹp hoa hồng phấn
Cốt cách thanh cao đoá thuỷ tiên.
Say đắm bờ môi cong diễm ảo
Lạc xiêu tà áo trắng trinh nguyên.
Chiều nao chú tiểu rời Thiền tự
Tìm cánh chim ương thỏa ước nguyền.
Vinh Hồ
24/2/19   
    Hư ảo cuộc tình 
Tôi bên Võ Tánh em Huyền Trân
Hư ảo cuộc tình quen dấu chân.
Cầu Bóng trời xanh sương lãng đãng
Tháp Bà mây trắng ý lâng lâng.
Ngựa xe Ngã Sáu chờ người ngọc
Hương khói Phật Đài hẹn mỹ nhân.
Bãi sáng sóng xô tình tứ quá
Biển chiều én liệng đẹp vô ngần.
Vinh Hồ
24/2/19
  Ngọt lịm tình quê
Từ chiến trường xa người lính rừng
Về thăm em gái nhỏ đương xuân.
Hẹn hò vườn bưởi cam sai quặc
Gặp gỡ cầu sương nguyệt sáng trưng.
Dốc Lết ngắm mây trôi lãng đãng
Bình Sơn nghe sáo hót vang lừng.
Lát xoài thơm lựng bàn tay ngọc
Ngọt lịm tình quê đẹp quá chừng!
Vinh Hồ
26/2/19
Vì yêu lính chiến
Từ chiến trường xa thẳm trở về
Thăm người em áo trắng chiều quê.
Vườn cau Điềm Tịnh anh thầm thĩ
Thềm nguyệt Bích Vân em tỉ tê.
Dẫu bể dâu luôn tròn chữ hẹn
Dù phong ba vẫn trọn câu thề.
Vì yêu lính chiến đời em  khổ
Trời đất thương em cũng ủ ê.
Vinh Hồ
5/3/19

Người lính vẫn chưa về
Từ núi rừng xa vọng xóm quê    
Một ngày chẳng thấy "tam thu hề".
Thương dòng suối bạc chiều tri ngộ
Nhớ bến sông xanh sáng hẹn thề.
Mong mỏi đông qua tàn khói lửa
Nguyện cầu hạ tới đẹp phu thê.
Mà đời thì cứ vô tri giác
Người lính xuân sang vẫn chửa về.
Vinh Hồ
5/3/19


Vì yêu lính chiến
Thư gởi về em hoa Thủy Tiên
Vì yêu lính chiến khổ triền miên.
Bởi thương tiền tuyến mong hòa hiếu
Và mến tiền đồn nguyện thái yên.
Vạn kiếp ghi lòng tim thánh nữ
Ngàn đời tạc dạ nghĩa hoa hiên.
Tình em không phải trong thần thoại
Sao quá siêu nhiên quá diệu huyền!
Vinh Hồ
5/3/19

Trái Tim thánh nữ
Xưa nay chinh chiến mấy ai về (1)
Khói lửa ngập trời dậy xóm quê.
Vì trót yêu người ngoài chiến địa
Nên đành đứt ruột trước sơn khê.
Từng giờ xương trắng phơi sầu thảm 
Mỗi phút máu đào chảy tái tê     
Vạn kiếp khắc ghi tim thánh nữ
Ngàn lời cảm tạ tâm bồ đề. 
Vinh Hồ
6/3/19

(1) Mượn ý câu:
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi (thơ Vương Hàn)

Nợ nước tình nhà 
"Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" 
Đọc cổ thi mà lệ muốn rơi.
Bởi mến người trai nơi khói lửa
Nên mòn con mắt ở phương trời. 
Ngàn năm cảm tạ ơn bồ tát
Vạn kiếp tri ân thánh nữ tôi.
Nợ nước tình nhà vai trĩu nặng
Thề yêu em mãi đến muôn đời.
Vinh Hồ

6/3/19

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi (thơ Vương Hàn)

Bóng mát tuổi xuân 
Ngôi trường Võ Tánh của tôi ơi!
Bóng mát tuổi xuân én rộn lời.
Nhập ngũ tôi đi vào đất chết
Đổi đời trường cũng mất tên rồi. 
Hai hàng cây lá không còn nữa
Những tiếng ve sầu hết ỉ ôi.
Một chuyến về thăm nghe lạc lõng
Cô đơn như khách lạ bên đời.
Vinh Hồ
6/3/19


Con đường cây lá
Con đường cây lá trước trường tôi
Bóng mát theo mây bay mất rồi.
Người lính vào tù thân khổ ải 
Thuyền nhân vượt biển lệ đầy vơi.
Sân trường chim sẻ im lời hát            
Mùa hạ ve sầu bỏ cuộc chơi. 
Tà áo giai nhân cũng biệt dạng
Tang thương từ vật đổi sao dời.
Vinh Hồ
6/3/19

Chờ em tan học
Trường nữ Nha Trang ôi thiết tha!
Mỗi ngày bốn bận tôi ngang qua.
Tường vôi trắng xóa yên vân tụ 
Dáng liễu xanh rờn oanh yến ca. 
Gió biển mơn man tà áo trắng 
Hải âu đùa giỡn ánh chiều tà.
Còn tôi náo nức chờ tan học
Sánh bước cùng em trên lối hoa.
Vinh Hồ
6/3/19


Sầu thảm ai gieo 
Sầu thảm ai gieo rắc Lạc Hồng
Tương tàn ai xúi giục Tiên Rồng.
Thu Thu xương trắng phơi đầy núi
Kỷ Kỷ máu đào chảy ngập sông.
Lửa cháy mặt trời đêm bất tận
Người ra biên ải ngày càng đông.  
Hôm qua em tiễn đôi dòng lệ
Tôi bước mà nghe nặng trĩu lòng.
Vinh Hồ
6/3/19


Cuộc chiến khốc liệt
Nhà tan cửa nát bao thu rồi
Núi cách sông ngăn tình rẽ đôi.
Kẻ trót yêu thương màu áo trận 
Người đi biền biệt nơi phương trời. 
Kẻ ngày đêm vái van Tiên Tổ
Người tháng năm cầu nguyện Phật Trời.
Nhưng cuộc chiến ngày càng khốc liệt 
Ngày về quê cũ thêm xa vời.
Vinh Hồ
6/3/19


Gởi gió mây về 
Gởi gió mây về thánh nữ tôi         
Người em áo trắng giữa dòng đời.
Ngày đông tháng hạ trông đầu núi       
Nắng quái chiều hôm đợi cuối trời.     
Tổ ấm uyên ương còn trắc trở
Tương lai hạnh phúc mãi xa vời.
Vì yêu lính chiến đời em khổ 
Vò võ canh trường lệ rớt rơi.
Vinh Hồ
6/3/19


 Từ nơi tử địa

1
Thư gởi về em thánh nữ tôi
Vì yêu lính chiến lệ đầy vơi.
Hoá thân Tô Thị trông đầu núi
Làm đá Vọng Phu ngóng cuối trời.
Trước mặt đường tương lai tối mịt
Sau lưng bóng hạnh phúc xa vời.
Từ nơi tử địa nhìn sao sáng 
Tôi nguyện yêu em đến vạn đời. 

2
Tôi nguyện yêu em đến vạn đời.
Người em sầu mộng của tôi ơi!
Vì yêu lính chiến ngày đau khổ
Bởi mến tiền đồn đêm rụng rời.
Máu đổ đồng bằng trăng phổ độ
Xương phơi biên ải gió ru hời.
Bao giờ đất nước thôi binh lửa 
Tôi sẽ cùng em kết mộng đời.
Vinh Hồ
6/3/19


Còn đó mối tình 
Còn đó mối tình thuở học trò
Còn nguyên mùi giấy trắng thơm tho.
Còn hoài mái tóc thề buông thả
Còn mãi bờ môi đỏ hẹn hò.
Còn nhớ dấu chân trên biển cát
Còn thương tiếng vẫy gọi con đò.
Còn mơ khói sóng buồm no gió
Còn mộng hàng cau đứng thẳng ro.
Vinh Hồ
6/3/19


Niềm Đau Tháng Tư
Kính tặng nhạc sĩ LMST và phu nhân Hoàng Yến.
Bốn bốn năm niềm đau tháng Tư
Vẫn còn nguyên vẹn trong tim người.
Hàng hàng lớp lớp dân di tản
Vạn vạn ngàn ngàn cảnh nổi trôi.
Mẹ lạc con kêu gào thảm thiết
Vợ tìm chồng thất thểu bồi hồi.
Sài Gòn chết lịm sầu thiên cổ
Nước mất nhà tan hận ngút trời.
Vinh Hồ
15/3/19

Xin đừng phủ cờ
Khi chết xin anh đừng phủ cờ
Vì tôi người lính chiến lơ mơ
Đã không dám chết cho non nước 
Và chẳng bảo toàn được cõi bờ
Thất trận thân tù đày khổ ải
Lưu vong hồn khắc khoải ơ thờ
Ngày đêm uất nghẹn nhìn quê mẹ
Lê kiếp ngựa trâu sống vật vờ

Đau đớn rơi vào tay Hán nô.
Hiến dâng đất nước cho Tàu ô
Di dân đồng hoá mưu Mao Đặng
Diệt chủng bao vây kế Tập Hồ
Hoá chất, sòng bài và đĩ điếm. 
Xì ke, ma tuý với côn đồ.
Đời đời nguyền rũa quân vô lại
Kiếp kiếp không quên nỗi nhục ô.

Vinh Hồ
6/5/2019



HEO TRONG THƠ, TRANH, TRUYỆN
(Sưu tầm của Vinh Hồ)
"Lợn ăn lá ráy", tranh Đông Hồ.
Trong văn hóa dân gian, heo biểu trưng cho sự phồn thực, tính dục, sự nhàn nhã và sung túc. Đầu heo là món sính vật quan trọng trong mâm cúng tế, heo là món chính trong hội hè đình đám quan hôn tang tế. Heo cũng biểu tượng cho tính lười biếng, háu ăn, bẩn thỉu, ngu ngốc và ham nhục dục, hình tượng của nhục dục. Heo thuộc âm: ôn hòa, nhã nhặn, tính phồn thực được đề cao.

 -Heo trong Lục Súc Tranh Công:

Truyện (tác giả khuyết danh) gồm 570 câu thơ "cổ thể" viết bằng chữ Nôm được Trương Vĩnh Ký (1837-1898) phiên âm ra Quốc ngữ năm 1887, nội dung có tính khẩu khí, trào phúng. Heo tự cho mình có công nhất không chỉ là thức ăn ngon mà còn là món chính trong hội hè đình đám quan hôn tang tế, ngay cả Vua khi cúng Nam Giao cũng phải có Tam Sanh (dê, trâu, lợn):
Vua ngự lễ Nam Giao đại đột,
Phải có heo mới gọi tam sanh,
Ðừng đừng quen lời nói lanh chanh,
Bớt bớt thói chê ai ăn ngủ,
Kìa những việc hôn nhân giá thú.
Không heo ra, tính đặng việc chi?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng.
Việc hòa giải, heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu,
Giận nhau đánh giập đầu, chảy máu.
Làng xã tới lao đao, láu đáu,
Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
Khiêng heo ra để lại giữa dòng,
Mọi việc rối liền xong trơn trải.
Phải chăng, chăng phải,
Nghĩ lại mà coi,
Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước. 
(Trích Lục Súc Tranh Công)

 -Heo trong tranh Đông Hồ:

Tục treo tranh Tết là nét văn hoá đẹp đẽ, là ước vọng tốt lành trong năm mới. Tranh "Đàn lợn âm dương” (cũng có tên là "Lợn đàn") vẽ đàn lợn con quây quần bên lợn mẹ, mỗi con mỗi vẻ: con thì muốn trèo lên lưng, con thì muốn rúc vào bụng mẹ, con thì hướng về lá khoai, còn heo mẹ thì đang đứng trước 1 cái máng đầy tràn thức ăn. Vòng khoáy âm-dương trên mình heo mẹ chỉ sự tốt lành, hài hòa, sinh sôi nẩy nở. Bố cục hoàn chỉnh, nét vẽ khoẻ khoắn, giàu chất sáng tạo, chuyên chở ước vọng được sống sung túc, hoà thuận, vui vẻ, con đàn cháu đống.
Còn bức tranh "Lợn ăn lá ráy" phác họa 1 con lợn háu ăn có nghệ thuật xuất thần cành lá ráy như đang động đậy trước mắt người xem. Nhìn chung tranh Đông Hồ về lợn rất đẹp, nét vẽ đơn giản tự nhiên, biểu tượng của sự sung túc, no đủ, phồn vinh, hạnh phúc.


-Trạng Lợn: 

Trạng Lợn là 1 nhân vật trong kho tàng truyện cười VN, đến nay vẫn chưa xác định danh tánh nhưng đều cho rằng Trạng Lợn sống vào đời vua Lê Thánh Tông. Trạng Lợn còn có tên là Trạng Bói (bói mò mà trúng), Trạng Dừa; gồm có 19 mẩu chuyện cổ tích thần kỳ, con đường thành Trạng "hay hổng bằng hên" gặp toàn may mắn luôn được siêu nhân phù hộ. Trạng vốn dốt lại lười, mỗi khi đụng chuyện, Trạng chỉ nói đại nói bừa nhưng đều trúng cả. Trạng Lợn đả kích thói hư tật xấu của quan lại, đồng thời tạo ra tiếng cười ngả nghiêng làm cho trong dân gian ai cũng khoái chí.


-Heo trong câu đối của Trạng Quỳnh và Tú Cát:

Truyện cười Trạng Quỳnh gồm 48 mẩu chuyện đả kích bọn sứ thần phương Bắc bảo vệ quốc thể, đồng thời chỉ trích đám vua chúa quan lại tham ô hà hiếp dân lành. 
Trạng Quỳnh là một nhân vật, một ông Trạng dân gian trào lộng thông minh tài trí. Có giai thoại kể ông Tú Cát bản tánh khoe khoang sau khi đỗ Tú Tài đã dương dương tự đắc ra 1 vế xuất:
-Trời sinh ông Tú Cát
Trạng Quỳnh đối lại ngụ ý chê Tú Cát dơ như bọ hung:
-Ðất nứt con bọ hung
Tú Cát hiểu ý làm 1 vế xuất khác chửi khéo Trạng Quỳnh tham ăn như lợn:
-Lợn Cấn ăn cám Tốn
Trạng liền ra 1 vế đối mắng khéo Tú Cát dữ như chó:
-Chó Khôn chớ cắn Càn


-Heo trong cuốn tiểu thuyết "Tây Du Ký":

Trong truyện có nhân vật tên Trư Bát Giới, nguyên là Thiên Bồng Nguyên Soái trên Thiên đình vì uống rượu say chọc ghẹo Hằng Nga mà bị đày xuống trần gian đầu thai trong bụng 1 con heo rừng. Lớn lên mê nàng Túy Lan đòi bắt về làm vợ, Tam Tạng đi thỉnh kinh ngang qua nghe chuyện sai Tôn Hành Giả đi đánh bắt về thâu phục làm đệ tử. Bát Giới dùng cái mõm dài ủi đường giúp Tam Tạng sang Thiên Trúc thành công, bạn đồng hành đều thành Phật, thành La Hán, nhưng Bát Giới thì không bởi lòng  chưa dứt bụi trần tham sân si:
"Bèo cám bê bết quanh mồm
Tai như chiếc quạt, mắt tròn vàng hoe
Răng nanh nhọn hoắt gớm ghê!
Mõm dài há ngoác đỏ khè đến kinh
Mũ kim khôi ánh lung linh
Áo giáp lấp lánh, quanh mình thắt dây
Đinh ba chín mũi cầm tay
Bên vai lủng lẳng một cây cung dài.
Oai như Thái tuế trên trời
Hiên ngang dữ tợn thần, người dám đương?"

-Heo trong thơ Nguyễn Trãi (1380 –  1442):

Tiến sĩ cuối đời Trần được Phan Huy Chú có lời nhận xét: "Ông Nguyễn Trãi tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả.", còn Lê Quý Đôn thì đánh giá: "văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời". Thi hào N Trãi còn lưu nhiều cuốn sách, trong đó có 105 bài thơ chữ Hán và 254 bài thơ chữ Nôm. Ông dành nguyên 1 bài viết về lợn - được xem là bài thơ đầu tiên trong thi ca cổ điển VN nhắc đến lợn:
Lợn
(bị thất lạc câu thư sáu)
Dài hàm nhọn mũi cứng lông,
Được dưỡng vì chưng có thửa dùng.
Lỗi hoà đàn, tinh Bắc Đẩu,
Lang một điểm, thuỵ Liêu Đông.
Chân khi mặt nước chưa hay lạt,
................
Tiện chẳng hay bề biến hoá,
Trương hai con mắt lại xem rồng.
(Trích trong Quốc Âm Thi Tập thơ Nguyễn Trãi từ Nguyễn Trãi toàn tập do Đào Duy Anh biên soạn, NXB Khoa học xã hội, 1976.
Lỗi hoà đàn, tinh Bắc Đẩu (1)
Lang một điểm, thuỵ Liêu Đông (2)
-Câu (1) lấy điển tích: đời Đường có thiền sư Nhất Hàng giỏi thuật số, bắt một ổ lợn nhốt vào một cái ống rồi bịt lại làm chòm sao Bắc Đẩu không mọc được để cứu người tù, khi Vua đại xá, người tù được tha, Nhất Hàng thả ổ lợn ra khỏi cái ống, Bắc đẩu liền mọc lại.
Câu (2) lấy điển tích: ở Liêu Đông gặp lợn lang đầu được xem là “thụy” nghĩa là điềm lành.

 -Heo trong thơ Phùng khắc Khoan (1528-1613):

Phùng khắc Khoan tục gọi là Trạng Bùng, năm 1597, trong chuyến đi sứ nhà Minh, sứ thần Đại Việt Phùng Khắc Khoan có gặp gỡ trao đổi thơ văn với sứ thần Triều Tiên là Lý Túy Quang. Trạng Bùng từng theo học Trạng Trình, có nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm và chữ Hán. Ông có nhắc đến "trâu bò gà lợn dê ngan" trong bài thơ dài "Đào nguyên hành" xin trích 6 câu:
Bông lau lông vịt lấy bông
Làm chăn làm đệm mùa đông ngự hàn
Trâu bò gà lợn dê ngan
Đầy lũ đầy đàn thả khắp mọi nơi
Ngày nhiều vật lạ của tươi
Che chở nghìn đời dân ấm dân no 
"Đào nguyên hành" cũng có tên là "Lâm tuyền vãn" là bài thơ Nôm lục bát xuất hiện khá sớm tả cây trồng, cách chăn nuôi gia cầm gia súc.  

-Heo trong thơ Nguyễn Du (17661820):

 Nét nổi bật trong thơ dù chữ Hán hay Nôm là cảm xúc dạt dào, Thi hào Nguyễn Du uyên bác nắm vững nhiều thể thơ: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành... ở thể nào cũng xuất sắc. Ngoài Truyện Kiều, còn nhiều tác phẩm giá trị trong đó có 3 tập thơ bằng chữ Hán. Người nước ngoài xem ông là nhân vật kiệt xuất của thơ ca VN. Trong bài chữ Hán "Sở kiến hành" ông có nhắc đến heo: "mãn trác trần trư dương" nghĩa là: đầy bàn thịt heo dê, xin trích 1 đoạn:
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thuỳ nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương (...)
(Trích Sở kiến hành trong Bắc hành tạp lục, thơ Nguyễn Du) 
Dịch nghĩa:
Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Ðầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Ðám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Ðem dâng lên nhà vua (...)
(Trích Những điều trông thấy, thơ  Nguyễn Du)

 -Heo trong thơ Nguyễn Công Trứ (1778-1858):

 Ông có chí, làm quan nhiều lần bị giáng chức. Thích sống tự do phóng túng, tánh khí ngang tàng ngạo nghễ 80 tuổi rồi mà còn dâng sớ xin đi đánh giặc Pháp xâm lược.
Thơ văn của ông còn khoảng 150 bài. Ông có nhắc đến heo: "hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó", xin trích 1 đoạn trong bài "Hàn Nho Phong Vị Phú":

Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng 
nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt 
mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
(Trch Hàn Nho Phong Vị Phú, thơ Nguyễn Công Trứ)

 -Heo trong thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909):


Nhà thơ của "mùa Thu" có nhiều thi tập, riêng "Quế sơn thi tập" có khoảng 200 bài thơ chữ Hán và 100 bài thơ chữ Nôm. Ông có nhắc đến heo: "xôi bánh, trâu heo cũng gọi là" trong bài "Lên lão", hay "mấy ổ lợn con rày lớn bé" trong bài "Nước lụt hỏi thăm bạn":
Lên lão
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm nay ông cũng lão đây mà.
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy ra.
(Nguồn: Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971)
Nước lụt hỏi thăm bạn
Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con rày lớn, bé?
Vài gian nếp cái ngập nông, sâu?
Phận thua, suy tính càng thêm thiệt,
Tuổi cả, chơi bời hoạ sống lâu.
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.

-Heo trong thơ Tú Xương:

Nhà thơ thông minh từ nhỏ, lúc 10 tuổi đã biết đối, khách đến nhà ra một vế xuất: "Đình tiền ngũ sắc hoa" (trước sân hoa năm màu), bé ứng khẩu 1 vế đối: "Lung trung bách thanh điểu" (trong lồng chim bách tiếng), khách tấm tắc khen tài. Ông lấy vợ năm 16 tuổi, cuộc đời ngắn ngủi gắn liền với 8 lần thi cử lận đận, hiện còn lưu khoảng 134 bài thơ - là sự kết hợp giữa hiện thực, trào phúng, trữ tình. Ông làm thơ Nôm bằng các thể: Đường luật, thất ngôn bát cútứ tuyệtphúvăn tếcâu đối, hát nóilục bát, ở thể loại nào cũng trác tuyệt nên có người ca ngợi là bậc "thần thơ thánh chữ". Nguyễn Khuyến làm câu đối khóc Tú Xương (mất năm 37 tuổi): 
Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn. 
Tú Xương nhắc đến heo: "đời nào lợn cạo ngôi" trong bài thơ sau:
Than cùng
Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi.
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi.
Ai trói voi bỏ rọ ?
Đời nào lợn cạo ngôi ?
Người bảo ông cùng mãi
Ông cùng thế này thôi
Tú Xương

-Heo trong thơ Phan Khôi (1887-1959:
Phan Khôi học giả/nhà thơ/nhà văn/nhà báo/dịch giả... là cháu ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại cổ vũ cho Thơ mới, bài "Tình già" 1932, được xem là bài thơ đầu tiên mở đường cho phong trào Thơ mới ở VN. Ông là Chủ nhiệm báo Nhân Văn Giai Phẩm (1956-1957). Ông nhắc đến heo bằng mấy câu sau:
Đánh đùng một cái
Kêu éc éc ngay
Bịt mồm, bịt miệng
Trói chân, trói tay

-Heo trong thơ Bàng Bá Lân (1912-1988): 

Ông được hai nhà phê bình Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng tặng cho danh hiệu "nhà thơ của đồng áng". Thơ đồng áng của ông nặng tình. Ông từng "nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh lợn gà" trong bài "Tết xưa": 

Tết về, nhớ bánh chưng xanh,
Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh lợn gà.
Nhớ cành đào thắm đầy hoa,
Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang.
Nhớ ngũ vị, nhớ chè lam,
Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành.
Nhớ tam cúc đẹt: Nhớ... mình!
Nhớ cân mứt lạc, nhớ khoanh giò bì...
(Trích Tết xưa, thơ Bàng Bá Lân)

-Heo trong thơ Đoàn văn Cừ (1913-2004):
Nhà thơ tả chân viết về thôn quê được hai nhà phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân ghi nhận: "Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như những bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt". Tác giả Đoàn văn Cừ từng mô tả: "hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu" trong bài "Chợ Tết", hay " Thịt lợn đầy mâm thái miếng to" trong bài sau:
Năm mới
Cây đèn bóng dựng dưới trời đêm
Chiếc vỏ chai cưa giả chụp đèn
Ngọn lửa trong mưa vờn lấp loáng
Gió lùa chùm khánh động "leng keng"

Vài lá đa xanh giắt mái nhà
Để cầu phúc lộc đến đề đa
Ngoài sân ấn quyết trừ ma quỷ
Vôi vẽ hình tên nỏ trắng loà

Bên vách hòm gian đặt cúng thờ
Bát hương nõn chuối cắm lơ thơ
Vỉ buồm gạo nếp "tay giềng" họ
Thịt lợn đầy mâm thái miếng to

Cây nêu - dấu Phật đuổi hung thần
Cổ mũ trên bàn cúng Táo quân
Mùng bốn Tết xong làm lễ tiễn
Giấy tiền ông vải đốt đầy sân
(Đoàn văn Cừ, 1941)

Xin trích 1 đoạn đầu trong bài Chợ Tết:

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.

(Trích Chợ Tết, 1939 thơ Đoàn văn Cừ)

 -Heo trong thơ Anh Thơ (1921-2005):


 Nữ tác giả thi tập "Bức tranh Quê" 1941  thuộc trường phái tả chân, nhà thơ của những bức tranh quê miền Bắc. Bà có nhắc đến lợn: "lợn chuồng ủn ỉn giục cho ăn" trong bài "Sáng hè", hay "mấy ông lão khiêng vào lồng lợn giống" trong bài "Họp chợ":
Sáng Hè
Gió man mát bờ tre rung tiếng sẻ,
Trời hồng hồng đáy nước lắng son mây.
Làn khói xám từ nóc nhà lặng lẽ
Vươn mình lên như tỉnh giấc mơ say.

Người dậy cả, bà già lần thổi bếp
Thằng cu con rụi mắt quét quàng sân.
Cùng trong lúc gà lồng kêu chiếp chiếp,
Và lợn chuồng ủn ỉn giục cho ăn.

Bên ao nước bèo chen rau muống nổi,
Mẹ rồi con xắn váy cúi khom, và
Người vớt bèo, người khều rau hái vội,
Vì trên đường lên chợ đã người qua.
Anh Thơ

 Họp chợ
Mới hửng sáng, đàn chim còn ngái ngủ 
Trên chòm đa buông rễ ướt bên đình. 
Hạt sương sớm đã trao tay gió rũ 
Khắp mái lều rung bóng mặt trời xinh. 

Mấy ông lão khiêng vào lồng lợn giống, 
Mấy bà già quẩy đến gánh bèo non. 
Mụ bán cá đặt thúng ngồi chửi đổng, 
Chị hàng rau mất chỗ chạy lon ton. 

Rồi gạo, vải, bún, quà, rồi bánh trái 
Lần lượt bày trong những tiếng lao xao. 
Lặng lẽ nhất có vài người thầy bói 
Bước gậy lần như những bước chiêm bao.
Anh Thơ

-Heo trong thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976):
Thi sĩ Vũ Chương Hoàng Chương có 1 bài Đường luật được truyền khẩu sau 1975 như sau:
Vịnh tranh gà lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Vũ Hoàng Chương, 1976.
Nguồn: www.thivien.net
(Nhà văn Đặng Tiến (Paris) trong bài viết “Thơ xuân Vũ Hoàng Chương” (2001) cho biết bài thơ trên được viết vào dịp Tết năm Bính Thìn 1976, bản ở trên do vợ của Vũ Hoàng Chương chép gửi).
Bài thơ trên thật cao tay, tràn đầy khí phách, có ý nghĩa thâm thúy, chỉ 8 câu mà sử dụng nhiều tục ngữ, thành ngữ, ca dao: "rừng có mạch, vách có tai ", "xanh vỏ đỏ lòng", "tranh tối tranh sáng", "mắt xanh", "mắt quáng gà", "gà cùng một mẹ", "lợn âm dương", "con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi". "thơ có họa" ở đây hiểu là thơ có tai họa, "khúc tân thanh" hiểu là  khúc đoạn trường. Nghe nói sau khi làm bài thơ này, tác giả bị bắt giam ở ngục Chí Hòa, khi lâm trọng bệnh được ra tù đưa về nhà, chỉ sau mấy hôm thì qua đời ngày 6/9/1976.

-Heo trong thơ Hoàng Cầm (1922-2010):
Tác giả bài thơ "Lá diêu bông" nổi tiếng, có nhắc đến lợn: "Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong" trong bài thơ dài "Bên kia sông Đuống" xin trích 1 đoạn: 
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu? 
(Trích "Bên kia sông Đuống" thơ Hoàng Cầm)

-Heo trong thơ Bùi Chí Vinh:

 Nhà thơ trẻ hiện sống bằng nhuận bút viết truyện, soạn kịch bản phim. Ông làm bài "Ca ngợi lợn" tự trêu chọc mình rất hài hước ngộ nghĩnh thông qua hình ảnh lợn rất dễ thương: "Năm lợn chợt thấy mình mắt hí, miệng ngoác mang tai, mũi hếch trời", xin trích nguyên bài:
Ca ngợi lợn

Năm lợn chợt thấy mình mắt hí
Miệng ngoác mang tai, mũi hếch trời
Đuôi mọc ở phần thân thể dưới
Bụng trĩu, đầu khom tướng khó coi

Đoán mình lại giống Trư Bát Giới
Không thỉnh kinh, chỉ thỉnh đàn bà
Nên trời trừng phạt thay con gái
Đêm về ụt ịt suốt canh ba

Đoán mình lại giống con heo sữa
Quay một tua mấy chục đĩa mồi
Các em cười cợt chuyền tay gắp
Nhớ chìa ra nửa trái tim thôi

Đoán mình lại giống con heo nọc
Phủ giống mà quên lựa đất lành
Bốn mùa sương phụ cho ăn cám
Chưa già mà gối nổi gân xanh

Đoán mình lại gớm câu Kiều dạy:
"Thất tự ngoài rồi bát nghệ trong"
Chao ôi, cái số Trư Bát Giới
Vụng đường tu bởi khách má hồng

Năm lợn chợt thấy mình đỗ Trạng
Ngày xưa Trạng Lợn cũng ra trò
Còn hơn năm cũ đen như chó
Rửa bằng tiền mà mõm vẫn dơ
Bùi Chí Vinh, Thơ đời, Nxb Thanh Niên, 2007

 -Kết luận:
Nhìn chung qua thi ca tranh truyện, heo đã được thương mến ca ngợi:

Mấy ổ lợn con rày lớn bé,
Vài gian nếp cái ngập nông sâu
(Thơ Nguyễn Khuyến)

 Tết về nhớ bánh chưng xanh
Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh lợn gà
(Thơ Bàng Bá Lân)

 -Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong 
(Thơ Hoàng Cầm)
...
Heo cũng bị trách móc nhưng nhẹ hơn chó rất nhiều:
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
(Thơ Vũ Hoàng Chương)
...
Có nhiều bài thơ về heo thuộc hàng tuyệt bút phản ảnh sinh động đời sống tâm linh, tinh thần của người VN, cũng là chứng nhân của các giai đọan lịch sử đen tối của VN.
Trước thềm năm mới kính mời quý đồng hương đọc bài thơ vui thay Thiệp Chúc Xuân Kỷ Hợi "vạn sự như ý" sau đây:
 Đàn heo
Trong vườn cam bưởi quít sum sê
Béo nhất đàn heo ai dám chê?
Chạy nhảy vui đùa cùng mẹo dậu
Ra vào thân thiện với trâu dê.
Trại chuồng rộng rãi nằm khoan khoái
Cám tấm ê hề ăn phủ phê.
Cô chủ hiền từ yêu mến lợn
Rờ đầu gãi bụng mỗi khi về.
Vinh Hồ
8/1/2019
THAM KHẢO:
-Nguồn NET
-http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/trang_quynh_trang_lon_tam_ly_nguoi_viet_cuoi.html


 TẾT XỨ NGƯỜI
Duy Xuyên

Tacoma, cũng có Tết như Nha Trang quê mình!  Vào những đêm trừ tịch, tôi cố lắng nghe tiếng pháo giao thừa, nhưng  chẳng nghe thấy gì cả.  Chỉ có tiếng bà hàng xóm, gọi chồng đi làm ca ba, nghe sao mà lãnh lót trong đêm tàn, át cả  tiếng giầy nện gót, nghe cọt kẹt của anh bạn láng giềng, vừa về nhà, sau giờ tan sở.  Tuyệt nhiên, không nghe thấy  tiếng pháo nổ rền vang, để đón giao thừa.

Dường như có cái gì bất ổn trong lòng tôi. Tôi cố mím chặt môi, nghe mằn mặn ở đầu lưỡi, nước mắt tôi đang lưng tròng, chảy dài trên gò má gầy vì năm tháng ưu phiền, đợi chờ trong vô vọng, thương nhớ triền miên, da diết.
Khi còn ở quê nhà, tôi  thường ngồi trước tách cà phê pha thật đậm khi giao thừa đến, liếm từng giọt cà phê  đắng trên đầu lưỡi, phì phèo vài điếu RUBY Quân Tiếp Vụ hay một vài  tẩu thuốc pipe, thả hồn trong điệu kinh nguyện cầu của Mẹ, để đón Xuân về trên đất nước Việt Nam. 

Tiếng Mẹ trước bàn thờ gia tiên đều đều, dạt dào lời nguyện cầu nhè nhẹ... "Nam Mô A Di Đà Phật."
Lời nguyện ngàn đời bất diệt, lắng sâu trong âm ỷ đã bao giờ mà nay vẫn còn lảng vảng đâu đây.
Nỗi buồn mỗi khi Xuân về, Tết đến ở đây là nỗi buồn da diết, càng nhớ về quê hương càng thương quê nhà, nhất là nơi đó còn có thân nhân ruột thịt, ông bà. cha mẹ.
Nơi đó còn có vườn hoa, bông cải vàng nở rộ sân.  Ta nhớ những đêm trừ tịch, ngồi bên bếp lửa, châm củi thêm vào lò, mà mẹ đang nấu bánh tét.
Nỗi buồn còn chất ngất khi mình nhớ tới anh em còn kẹt lại, bị giam cầm trong hỏa ngục đỏ của cộng sản.
Mỗi ngày xa quê hương là mỗi phút giây ngơ ngác, muộn phiền tiếp nối với những cơn mê kéo dài ...

Sáng nay, 6/2/17, Tacoma mưa nhiều.  Trời vào Đông.  Những hàng cây chết rũ bên đường. Lá bắt đầu đổi màu.  Mưa giăng bốn hướng. Mùa đông năm 2016 này, thời tiết tại Tacoma quá lạnh.  Mới đến tháng 2 mà tuyết đã rơi rơi.  Những vùng khác giá buốt đã kéo về sớm hơn mọi năm.  Thiên hạ khổ sở vì tuyết rơi ngập đường, giao thông bế tắc.

Nhớ lại những mùa mưa năm xưa, anh và em cùng làm chung trong một tòa nhà, tuy hai cơ quan khác nhau.  Hai đứa rủ nhau đi làm cùng một lúc.  Sáng chiều có nhau.  Nay thì em đổi đi một nhiệm sở khác, anh lủi thủi, về hưu. Sáng nay, một thân một mình, tôi đi bộ, băng qua bãi đậu xe của "Khu Gia Cư Tacoma," có nhiều xe đang đậu trong những đường kẻ vạch trắng, tôi tìm chỗ em thường đậu xe, nay có xe của một người khác đã đậu nơi đây rồi.
Nhìn qua cửa sổ phòng em, cái bàn kê gần sát cửa sổ, cái ghế vẫn chưa có ai ngồi, tẻ ngắt. Nỗi buồn của buổi bình minh xám xịt như những cành thông già ủ rũ quạnh hiu.
Em đi làm xa rồi.  Buồn!  Chợt nhớ đến em.  Vắng em là vắng tất cả.  Xa em là xa tất cả.  Ước gì giờ này có em bên cạnh để anh vuốt lại những sợi tóc mây lòa xòa, đang vắt
ngang trán em, hôn nhẹ lên môi em để nghe tiếng em thở đều và anh thấy hương môi em ngào ngạt, thơm ngon.
Một mình với chiếc dù nhỏ, anh kéo lê bước chân buồn đến Trung Tâm Văn Hóa  Đông Dương, nơi đây ngày xưa, anh đã phụ trách lớp luyện thi Nhập Quốc Tịch Mỹ cho anh chị em tị nạn chính trị cộng sản. Đường xá vắng teo, anh vừa đi vừa nhìn trời, mây thênh thang, hồn thơ đang
chờn vờn, lai láng.  Vài giọt mưa hắt vào mặt cho anh cái cảm giác ngây ngất tưởng mình còn ở tuổi ngây dại.  Nhớ những lần mới quen nhau, hai đứa thường đi bộ dưới cơn mưa, dọc theo bờ
biển Nha Trang, vài giọt mưa cũng tạt vào mặt như thế này.  Da thịt em thơm mát quyện vào từng cơn gió biển, nghe thoang thoảng hạnh phúc ngập tràn. Tình yêu như những hạt mưa trên thân thể hai đứa đang bén gót bên nhau, mà mỗi đứa theo đuổi một ý nghĩ riêng, không ai nói với ai một lời.  Mải đến khi một cơn gió nhẹ thổi tạt vào tóc em bay bám chặt vào môi anh, như em đang vẫy gọi; bỗng em cất tiếng hát nho nhỏ rồi anh nhận ra ngay âm thanh cao vút, loạn cuồng đó nhạt nhòa trong bầu trời có những vầng mây bay thật thấp.
Anh đưa em về.  Hai đứa rão bước nhanh chưa đến con đường Nguyễn Tri Phương trời đổ mưa.  Mưa giăng khắp các nẻo đường phủ màu trắng đục.  Vài tia sét chạy tua tủa phát ra những tiếng nổ lớn vang dội cả một góc trời.
Tôi choàng tay ôm qua vai em.  Thanh-Đào nhỏ nhắn nép sát vào ngực tôi.  Hai đứa chìm dưới cơn mưa nặng hạt.  Hơi ấm từ lòng ngực Thanh-Đào chuyền qua cơ thể tôi.  Tôi xiết chặt bờ vai em và quên cơn mưa đang rơi trên vai áo.  Tôi cầu mong cơn mưa cứ kéo dài.  Nhưng ròi mưa cũng tạnh.  Tôi dìu Thanh-Đào vào dường cụt.  Con hẻm nhỏ.   Nghe thấy mình đờ đẫn với ý nghĩ đi hoang vào mọng mị.  Chơi vơi!

Sáng nay anh lủi thủi một thân một mình, bước từng bước trên con đường vắng ngắt, với nỗi buồn của buổi sáng tinh sương, đầu óc nặng trĩu suy tư.  Chẳng có em bên cạnh để anh thủ thỉ chuyện trò, để nắm bóp năm ngón tay nhỏ xíu, mềm như búp măng mới mọc, của em trong lòng bàn tay anh, để được ghì mạnh với hai cánh tay vòng ôm lưng nhau xiết thật chặt.

Mùa Đông ở xứ người, phố vẫn đổ mưa như thác lũ.  Mưa vẫn mưa.  Gió cứ gió. Mùa Đông ở đay vẫn thường là những cơn mưa kéo về Tacoma không dứt, để ta nghe như tiếng thác đổ từ núi rừng về rồi ta bị những ám ảnh bởi những quá khứ dày đặc đã qua, nó vẫn còn dằn vặt ở đau đó trong tiềm thức quanh đây, vấn vương trên con đường từ nhà đến sở
làm hay ngay cả trong giấc ngủ chập chờn, ngập tràn ác mộng đêm nay!

Bỗng có bóng dáng một học viên từ xa đi về bãi đậu xe, anh vội sửa lại dáng đi bề thế hơn, nghiêm nghị hơn, nên hồn thơ cũng vội vã vỗ cánh bay xa.
Tôi đã bám lấy nghề nghiệp và hăng say với công việc hằng ngày bằng những ước mơ hết sức tầm thường nhưng rất mong manh, không biết mình sẽ bị mất việc ngày nào!  Tôi thừa biết đời là phải phe cánh, nhập băng cho đúng tần số nhưng sao tôi không thể đánh mất lương tri một cách dễ dàng như thế được.
Tôi đã cố gắng biết chừng nào khi phải chung đụng với những tên "Cựu Sĩ Quan" chuyên nịnh hót một cách hèn hạ, tôi nóng giận khi phải giao tiếp, gặp gỡ tiếp xúc với những tên cực kỳ đê tiện này, không còn một chút liêm sỉ của một người "Cựu Tù Nhân Chính Trị" bình thường, dù chỉ bình thường trong một thoáng giây nào đó.  Tôi tự hỏi:
"Tại sao có những hạng người bỉ ổi này đã được đào tạo thành cấp chỉ huy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?"
Ý nghĩ khinh miệt lúc nào cũng thấp thoáng trong đầu mỗi khi tôi nhìn thấy sự thỏa thích, hài lòng của những tên vô loại này được cái cơ may đến Mỹ trước mà lên mặt, coi thường người tỵ nạn mới qua, chưa nói được nhiều tiếng Anh, chúng lấy đó làm niềm vui, rồi diễu cợt người tỵ nạn mới đến sau.

ng thể nào nhập băng, cấu kết với những tên lưu manh, phản phúc này, do đó, tôi nghèo vẫn nghèo!  Nghèo như ngày nào còn nghèo.  Không gì đổi thay! Buồn cho kiếp nghèo vây bủa!  Vui!  Chỉ vui với mái ấm gia đình.
Tháng Hai!  Thành phố Tacoma, mưa nhiều!   Hôm nào không mưa thì bầu trời xanh xám che mặt buồn thiu.  Thỉnh thoảng có tuyết rơi nhè nhẹ, đủ che khuất gót chân chim của Thanh-Đào trở về tổ ấm, sau một ngày điên đầu với công việc.
Hàng cây phủ rêu chết rũ hai bên đường đứng nghiêng mình run rẩy, những chiếc lá vàng úa chưa muốn lìa cành mà vẫn còn luyến tiếc bám chắc vào thân cây trắng đục, đong đưa theo cơn gió thoảng.
Vào những ngày mưa như hôm nay, nếu có Thanh-Đào ở nhà, nàng sẽ kể cho tôi nghe, những cơn mưa ở Việt Nam, và bao giờ em cũng bắt đầu bằng:  "Nhớ lại ngày xưa, khi gia đình em còn định cư ở  "Vùng Kinh Tế Mới Nhiễu Giang,"  cả gia đình phải sống trong một căn nhà tranh, vách đất cũ kỹ, dột nát.  Mỗi lần mưa đến là mối phiền muộn hiện lên khuôn mặt của mẹ em.  Ngoài trời đang mưa, trong nhà em ngồi gần chậu nước hứng mưa, nhỏ giọt nghe tí tách. Mẹ và các em ngồi khoanh tay cạnh cửa sổ chờ hết mưa, mà tuổi thơ của em như những giọt mưa đang chảy tung tóe trên nền đất loang lổ.  Mưa hoài không tạnh, rồi cơn mưa khác lại nặng hạt hơn, nhưng rồi cũng xong, cũng qua đêm.  Cứ có mưa thì hình ảnh ấy quay cuồn cuộn trở lại làm em khó quên.  Mẹ quá nghèo, tay yếu chân mềm, bị cưỡng bức sống bằng nghề làm rẫy,  không đủ nuôi bày con đang tuổi đòi ăn."
Vừa nói xong, em quay mặt đi, tránh không cho anh thấy hai giọt nước mắt đang lăn từ từ trên má.  Rồi như nhớ ra điều gì, em nhìn anh lo âu, hỏi:
"Không biết mùa mưa này, tụi nhỏ ở Khu Kinh-Tế-Mới Nhiễu-Giang có sao không anh?" Anh trấn an: "Không sao đâu."
Mỗi đứa theo dòng suy nghĩ riêng tư.

Chuông điện thoại reo.  Em vội vàng chụp lấy ống nghe.  Rồi lần nào cũng vậy, đầu giây bên kia,  một bà Mỹ già, nói không rõ giọng.  Em vội đi làm ngay.
"Em đi làm sớm anh nhé!  Một bà Mỹ già cần đi bệnh viện, nhưng sao sáng nay xe quên đón. Em vào sở xem sao?"
Em vội vã ra đi, dưới cơn mưa nặng hạt.
Duy Xuyên
Tacoma
Trích: Con tim thổn thức
 Tết Về Thăm Mộ Mẹ
 Duy Xuyên

Tôi ước mong cuối cuộc đời xin một lần được đưa em về Nha Trang, quê Mẹ mình hiền hòa và thơ mộng, để  em có dịp ngồi trên con đò nhỏ xuôi theo dòng sông Cái trong xanh, con đò lờ đờ trôi dọc theo bờ cỏ dại, chen giữa những hàng dừa chi chít, rũ lá rợp trời, trên đường về Lư Cấm, để thăm mộ Mẹ, trong dịp Xuân Về Tết Đến năm nay.

Anh sẽ đưa em về, để em gục đầu bên giường Mẹ hay em chỉ đứng bên bàn thờ, ngậm ngùi buồn cho tháng ngày qua mà mắt Mẹ vẫn còn nhòa lệ vì lũ con đi xa nơi xứ lạ quê người, chưa một lần về thăm mộ Mẹ.

Cũng có thể em sẽ theo anh về để mình băng ngàn vượt núi, leo theo những dốc đá chênh vênh, Về vùng đất lạ, để em truy tầm mộ Mẹ, đã bị vùi sâu trong hoang lạnh, vì những cơn lũ lụt tràn về mà mộ Mẹ thiếu người chăm sóc.

Hay em chỉ sẽ lặng thinh không cất lên được một lời, nghẹn ngào vì những ngôi mộ gầy, nằm dọc theo triền núi, nay đã bị di dời, cải táng đi chỗ khác.

Anh sẽ đưa em về quê cũ, để em được quỳ bên gối Mẹ, thỏ thẻ kể cho Mẹ nghe cuộc  đời gian truân của một người tỵ nạn lưu lạc xứ người và nghe tiếng Mẹ tức tưởi thở dài.

Hay anh sẽ dìu em về Suối-Dầu, tìm mộ Mẹ, nằm xác xơ, trơ vơ bên thân cây gầy trơ trụi giữa cánh đồng hiu quạnh, để em sẽ chỉ lặng thinh đứng nhìn, thầm hỏi có lẽ nào mộ Mẹ đó sao?

Hay anh sẽ phải đưa em qua dốc cầu gỗ, dìu em bước từng bực cấp một, để em trèo lên được tượng đài Kim-Thân Phật-Tổ, để anh em mình chỉ đứng ngậm ngùi, tìm từng lọ hỏa thiêu ... chứa đựng một chút hương tàn, xương cốt của Mẹ đã trở thành tro bụi...

Duy Xuyên
Tacoma/12/01/2019


 

Tản mạn Những cái Tết năm xưa
Quốc Thai
Sở dĩ tôi nói những cái Tết năm xưa là vì tôi muốn kể lại một vài chuyện Tết mà tôi còn nhớ được từ lúc biết Tết là gì cho đến khi rời khỏi Việt nam đi định cư tại Hoa Kỳ năm 1992.
Vâng, hồi đó, khi Ba tôi đã chuyển về quê nhà An Giang làm việc tại Chợ Mới, và sau đó là Long Xuyên, thì mỗi dịp Tết đến, Ba đều đưa cả gia đình về quê Ngoại tại chợ Vàm Cống để ăn Tết, thăm viếng bà con họ hàng. Hồi đó tôi thích nhất là được về đây, vì nơi đây tôi có rất nhiều bà con thân tộc bên nhà Ngoại. Và được tung tăng đùa giởn cùng các anh chị em họ của tôi, nghĩa là cháu nội và ngoại của Ngoại tôi, vì ở Long Xuyên tôi không thể có được. Nhưng thú vị nhất có lẻ là những bao lì xì đỏ chói khi được tất cả các người lớn trong Gia tộc lì xì. Tôi còn nhớ, năm đó, Cậu Mợ Ba của tôi, anh trai thứ của Mẹ, có sạp bán đồ chơi trẻ em tại chợ Vàm Cống. Thế là Tết năm đó tôi có được các loại đồ chơi từ xe hơi, xe tăng, đến súng bắn pháo. Những ngày Tết được mặc đồ mới, được xem múa lân, được nghe pháo nổ, được tiền lì xì...đó chính là những thú vui, những ước muốn của bọn con nít.
Năm 1976, lúc đó tôi mới 11 tuổi. Mùng Ba Tết, tôi cùng Mẹ về thăm Nội tại nhà lớn ở chợ Đường Ngang, Long Xuyên. Xúng xính trong bộ đồ lớn ba túi, trong đó có một cái bóp với rất nhiều tiền lì xì, những tấm hình của Ba và Mẹ, của tôi và em trai, nhét vào cái túi bên tay phải phía dưới. Nghe lân múa ngoài chợ, nghe pháo nổ đì đùng, tôi xin Mẹ chạy ra xem. Mải mê xem lân pháo, bị kẻ gian móc túi hồi nào không hay, khi về lại nhà Nội mới biết là đã mất bóp. Tôi khóc thiệt nhiều. Nhưng khóc không phải vì tiếc tiền, mà vì tiếc mấy tấm ảnh đã mất.
Tết đến, khoái nhất là những ngày giáp Tết. Vì tôi sống ở chợ, nên không khí chợ Tết rất nhộn nhịp. Chợ thành thị Long Xuyên, người ta bày bán hoa quả, dưa hấu, trái cây...từ miền quê mang ra. Và chợ nhóm ở các con đường như Công Trường Trưng Nữ Vương, bên hông nhà thờ lớn Long Xuyên, cùng các con đường chính dẫn vào chợ. Đâu đâu cũng người, xe cộ và hàng hoá...xen lẫn tiếng pháo đì đùng...vui thiệt là vui. Còn ở chợ quê như Vàm Cống thì khỏi nói, hàng hoá bày bán la liệt từ con đường chính dẫn vào chợ. Bà con bạn hàng bung dù, che rạp quanh hàng quán của mình, cái nầy nối cái kia tạo thành một cái nóc nhà lớn. Các loại hoa, dưa hấu, ngũ quả từ thôn quê đem ra bày bán những ngày Tết. Nhưng bọn con nít thì thích nhất là những hàng ăn, những gian hàng bánh kẹo, pháo...
Nói đến pháo, vào những ngày Tết, con nít chúng tôi, hễ có tiền là mua pháo. Nhưng con nít chỉ dám đốt pháo kim thôi. Lớn hơn một chút thì chơi pháo tiểu, trung, rồi pháo đại. Và có số chơi ống lói, nổ rất lớn, như lựu đạn. Thời đó pháo đốt vô tội vạ. Nhiều khi đang đi đường, bỗng "bùm" một viên pháo bay vào áo quần...cháy, và phỏng. Nhiều anh chọc gái rất là vô duyên bằng cách đốt pháo rồi quăng vào người cô gái ấy....Ở khu vực chợ Vàm Cống, có rất nhiều nhà đốt pháo rất dữ vào đêm giao thừa, và Mồng Một Tết. Pháo treo từ tuốt trên lầu cao trên sân thượng dài tới đất. Thời khắc giao thừa, những phong pháo đồng loạt nổ thiệt là vui tai. Những đứa con nít thì tranh nhau lượm những viên pháo không nổ rớt xuống đất. Còn về chơi ống lói thì có gia đình của Cậu Sáu Thắng, mấy anh con trai từ lớn đến nhỏ đều chơi loại nầy. Xen kẻ những tiếng pháo nổ là những tiếng nổ chát tai từ ống lói. Những kẻ nghich ngợm thì dùng lon sữa bò úp lên viên pháo đại, châm ngòi..."bùm", một tiếng nổ đinh tai vang lên, và cái lon bay thẳng lên trời, rồi...rớt xuống đất. Trò chơi nầy rất nguy hiểm. Nói chung ý thức của người chơi pháo quá kém nên rất nguy hiểm. Những vụ cháy, nổ, phỏng người xảy ra thường xuyên dẫn đến việc cấm đốt pháo ngày nay.
Có những năm vào dịp Tết đến, Ông Ngoại tôi cùng với mấy ông trưởng lão tổ chức những trò chơi dân gian như: bịt mắt đập nồi (trong nồi có nước), đua xe đạp chậm, nhảy bao bố, trèo cột mở, chạy đua ba chân (hai người cột chân lại với nhau), kéo co, có năm tổ chức đua thuyền...chung quanh khu vực chợ Vàm Cống thu hút rất nhiều người tham gia, và rất vui. Bên cạnh đó còn có môn cờ tường, với bàn cờ vĩ đại dựng lên ngay phía trước nhà Ngoại tôi. Hai người tham gia chơi cờ bên dưới, và xướng ngôn viên sẽ báo là "lên xe", "xuống sĩ", chẳng hạn, thì hai người đứng hai bên bàn cờ vĩ đại sẽ di chuyển những quân cờ theo sau lời xướng ngôn viên. Nói chung Tết ngày xưa rất rất vui, vui hơn Tết bây giờ nhiều,
Đối với cá nhân tôi, có một điều rất thú vị về chợ Tết là, những ngày giáp Tết chợ nhóm suốt buổi, vì hồi đó chợ chỉ nhóm vào buổi sáng, phố chợ đông vui, nhộn nhịp...Ngày 30 có khi chợ nhóm đến 11 giờ khuya mới tan. Và sáng mồng Một, cái thú đầu tiên của tôi vào sáng mồng Một sau khi mặc vào bộ đồ mới là chạy ù ra chợ để cảm nhận cái không khí Tết là chợ vắng teo, không một quầy hàng, một hiệu buôn nào mở cửa, và nghe tiếng pháo đì đùng khắp nơi...Sau đó họp cùng với mấy anh em họ của tôi đi lòng vòng chợ chơi, rồi ăn hàng, sau nầy lớn hơn một chút thì ngồi quán cà phê. Lớn thêm chút nữa thì đi chơi xa, đi nhậu, v.vv...Nhưng những cái Tết của tuổi thơ vẫn là vui nhất, hạnh phúc nhất.
Ngày nay Tết đến không còn nghe tiếng pháo, không còn ngửi mùi pháo, không còn thấy xác pháo nữa. Người ta nói "lân múa hay nhờ tiếng pháo", nhưng bây giờ pháo không còn nữa, tôi không biết lân múa như thế nào. Ở hải ngoại, nhất là ở Mỹ, những thành phố đông người Việt, thì Tết đến vẫn còn nghe, ngửi và ngắm pháo nổ. Nếu ở Việt nam cho đốt pháo trong sự kiểm soát vào đêm giao thừa và sáng mồng Một thì không khí Tết cổ truyền mới lưu truyền mãi mãi đến đời sau.
Quốc Thái
Tết

MẢNH ĐỜI NGHIỆT NGÃ
Quốc Thái

Miền Nam Việt Nam thập niên một chín năm mươi. Vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long trù phú, nhiều tôm cá. Người dân có một cuộc sống an bình và thịnh trị. Người lớn có công ăn việc làm ổn đình, dù có sự chênh lệch giữa giàu nghèo, nhưng bà con chòm xóm rất thương yêu nhau như người trong gia đình. Trẻ con được cắp sách đến trường, học được cái chữ, con toán, rồi về quận, lên tỉnh học những lớp cao hơn. Nói chung cuộc sống người dân nông thôn được ấm no và hạnh phúc.

Vào một buổi sáng giữa tháng Giêng, cái không khí Tết vẫn còn vương vấn đâu đó trên cành cây, ngọn cỏ. Vài chú chim muông buông tiếng hót, mấy chú vịt con theo mẹ tìm mồi trên con rạch nhỏ. Chú chó con đùa giởn trong vườn cùng với cô mèo. Khi cô mèo phóng vút lên cây, chú đành đứng dưới đất vẫy đuôi nhìn lên. Cây cỏ, đồng lúa xanh tươi, hoa nở khắp nơi trong thôn xóm. Ngoài chợ đông đúc kẻ mua người bán. Các hàng quán chay đông khách lạ thường. À! thì ra hôm nay là Rằm tháng Giêng. Các món ăn chay nổi tiếng của miền quê sông nước làm ấm lòng lữ khách phương xa cũng như bà con tại nơi đây. Người ta thấy có một thiếu phụ tuổi ngoài hai lăm đang thu mua những nông sản, hàng hoá, lương khô, vài miếng thịt ba rọi, vài ba con cá, cọng hành, củ tỏi, và nhiều thứ tiêu dùng cho bà nội trợ, chất đầy trên hai giỏ và gánh xuống bến sông. Con nít ở chợ vui vẻ nô đùa, trong khi những đứa trẻ theo mẹ ra chợ thì lấm la lấm lét, sợ sệt và cứ bám theo mẹ chúng không rời. Khi ông mặt trời vừa đi ngủ, ông trăng thay thế toả ánh sáng xuống thôn làng, thì nam phụ lão ấu nơi đây áo quần chỉnh tề kéo nhau đi cúng rằm đầu năm. Người lớn vào chùa cúng lạy, trẻ con theo ông bà cha mẹ chạy chơi lẩn quẩn trong khuôn viên chùa, các anh chị nam thanh nữ tú lại có dịp nhìn ngắm nhau, và hẹn hò tâm sự. Bỗng có một người lạ với cái quần đen mốc thít, cái áo bà ba cũ mèm, cùng đôi dép rách tả tơi bước vào chùa. Mọi người đều đổ dồn ánh mắt về người phụ nữ lạ ấy. Có một vài người nhận ra cô ấy là người thu gom hàng sáng nay ở chợ.
Qua thăm hỏi, cư dân ở đây được biết cô ấy là một người bán hàng rong trên miền sông nước. Với chiếc xuồng, cũng là nhà, và hai máy chèo phía sau, đã đưa cô đi khắp hang cùng ngỏ hẻm của vùng sông nước miền Tây. Cô ấy không có thân nhân họ hàng gì cả, nên không có vướng bận gia đình, vì vậy cô có thể chu du khắp nơi. Chổ nào đắt hàng, thì cô ở lâu một chút, chổ nào ế ẩm thì cô đi sớm một chút. Những mặt hàng mà cô buôn bán đa phần dành cho các bà nội trợ, cho nên cô quen biết nhiều nhất cũng là cánh chị em phụ nữ. Vì lẽ đó mà đến giờ này cô vẫn chưa thành lập gia thất.
Trong vùng này, giàu nhất có lẻ là ông tư Đạt. Gọi là ông chớ thật ra Đạt mới ngoài ba mươi. Dáng người khoẻ mạnh. Ông có một vợ, thành hôn đã hơn năm năm trời  mà vẫn chưa có một mặt con nào. Những ngày Mười bốn, Rằm, Ba mươi, Mùng Một, hai vợ chồng ông đều đến chùa lễ Phật để cầu con. Không những đến chùa, mà ông bà còn làm rất nhiều việc thiện, để mong Ơn Trên nhìn thấy và cho ông bà một mụn con để nối dõi tông đường.
Ông Đạt hiền lành, siêng năng, nên rất được bà con chòm xóm thương mến. Hằng ngày ông ra ruộng, rẫy để chăm sóc lúa vườn và cây ăn trái. Ông vốn đã giàu, lại siêng năng chăm chỉ, nên càng giàu thêm lên. Người ta nói, phải giỏi giang, chịu khó, chịu khổ, thì mới giàu được, và ông tư Đạt là một ví dụ điển hình để bà con lối xóm, nhất là lớp trẻ, noi theo. Sự thành khẩn của vợ chồng ông tư Đạt cuối cùng đã được đền đáp khi bà tư có mang và hạ sinh một cô con gái kháo khỉnh.

Bên cạnh ông tư Đạt còn có ông hai Thành và cô Ba Cần, cũng là những con người giàu có vùng này, nhưng hai người ấy ở hai xóm kế cận với ông tư Đạt. Từ xóm này qua xóm kia phải qua sông, và phương tiện duy nhất là xuồng. Chính vì vậy mà mỗi xóm là một vùng đất riêng biệt như những hòn đảo nhỏ được bao bọc bởi những con sông và kinh.
*****

Ông Hội Đồng Huân cai quản cả một Tổng lớn thuộc vùng Bạc Liêu. Và có thể nói ông là một ông Hội đồng giàu có nhất vùng. Trong nhà người ăn kẻ ở nhiều vô số kể, họ thuộc những gia đình nghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đã được ông Hội đồng bỏ tiền mua về làm gia nô cho hết cuộc đời. Sống hay chết cũng đều là người của ông Hội đồng. Có điều đáng nói là dù họ là những gia nô do ông bỏ tiền ra mua, nhưng ông luôn coi họ là một phần tử trong gia đình, và dù mang thân phận người ăn kẻ ở, nhưng tất cả luôn được ăn no mặc ấm, công việc hằng ngày cũng vừa phải với tất cả mọi người. Chính vì vậy mà ai ai cũng đều thương mến, kính trọng ông Hội đồng Huân. 
Đàn ông thời xưa, khi có địa vị cao trong xã hội thường hay sinh ra cái tật "đa thê", và ông Hội đồng này cũng thế. Người vợ cả của ông đã được cha mẹ ông hỏi cưới và đã hạ sinh cho ông một cậu quý tử. Khi cậu con trai vừa tròn hai tuổi, trong một lần đi ăn giổ ở Tổng kế bên về, ông bắt gặp một cô gái có nước da bánh ít mặn mà, gương mặt sáng sủa, thân hình con gái mới lớn cân đối đều đặn. Ông bỗng thèm "hương đồng cỏ nội" bèn đến gạ tình, nhưng đã bị cô gái ấy cự tuyệt. Trong hơi men chập choạng, cùng với cơn hưng phấn ở trong lòng, ông quyết tâm chiếm cô ấy cho bằng được bằng cách hiếp dâm cô ta. Sau khi thoả mãn, ông bảo:
-Ngày mai, qua sẽ đem cau trầu đến nhà cô em để hỏi cưới cô em về làm thiếp của qua.
Cô gái khóc thút thít tức tưởi. Đời con gái của mình bỗng nhiên bị cướp một cách thô bạo, nên nói:
-Tôi không cần. Ông hãy trả lại đời con gái cho tôi đi. Tôi còn phải lấy chồng, là người tôi yêu chớ không phải là ông.
-Tôi nhất định sẽ cưới cô. Cha mẹ cô không thể nào từ chối tôi được. Những gì tôi muốn là tôi phải lấy cho bằng được.
Rồi ông dỗ dành:
-Dẫu sao thì qua cũng đã lỡ với em rồi. Thì thôi về làm vợ qua đi, qua sẽ cho em một cuộc sống sung túc và hạnh phúc.

Nói xong ông quày quả bỏ đi, để mặc cô gái ở lại khóc tức tưởi.

Sau khi bị cưỡng hiếp, và nhiều lần bị cưỡng bức, cuối cùng thì Lan cũng trở thành bà hai của ông Hội đồng. Ngày mới về nhà, Lan bị bà cả cho gia nhân trói lại và đánh đập dã man, bà nói:
-Đây là lễ nhập gia chị dành cho em. Chị không muốn em có con, nên khi có thai phải cho chị biết để chị hốt thuốc phá thai cho em. Một mình quý tử nhà chị là đủ rồi, không cần phải có em đâu, và sau này cũng không cần phải chia sớt cái cơ ngơi này cho ai. Chị nói ít, em hiểu nhiều.

Lan dù thương nhớ người yêu, nhưng giờ đây đã là người của ông Hội đồng rồi, nên cô cũng đành phải xuôi theo số phận vậy. Mỗi đêm ông Hội đồng đều ngủ ở phòng Lan. Chẳng bao lâu sau Lan có thai. Bà cả biết được ép Lan phải uống thuốc phá thai, và đứa con đầu lòng đã bị bà cả cướp mất khi nó còn chưa được thành hình. Lan âm thầm chịu đựng. Lan nghĩ cuộc đời mình đã chấm hết từ đây, và mặc kệ cho số phận muốn đưa đẩy đi đâu thì đưa. Có lẽ Lan là người nhạy con cái, nên không lâu sau đó Lan lại mang thai. Lần này Lan dấu rất kỷ, nhưng không qua khỏi những cặp mắt cú vọ của tay chân của bà cả. Và thế là...Lan bị ép uống thuốc phá thai lần nữa. Lần này, Lan quyết không nhịn nhục nữa nên kể lại sự tình cho ông Hội đồng nghe, vì khi cô thụ thai, cô đã cho ông biết. Khi biết được sự việc, ông Hội đồng giận lắm, cho gọi bà cả ra ngoài đánh cho một trận nhừ xương, và còn đem trói ở gốc cây xoài qua đêm nữa. Trước sự việc này, Lan cảm thấy hả hê trong lòng lắm, dù rằng mình đã mất đi hai đứa con chưa thành hình. Nhưng đêm về, càng nghĩ thì Lan càng tức, và ý nghĩ trả thù đã hiện lên trong đầu Lan. Phải, mình phải trả thù. Một mạng của bả đổi hai mạng của con mình cũng còn quá rẻ.
Và kế hoạch trả thù của Lan đã thành công khi chính tay cô ép bà cả uống chén thuốc độc hai đêm sau đó mà cả nhà ông Hội đồng không ai biết vì sao bà cả chết.
Bà cả chết đi khoảng mươi tháng thì Lan thụ thai. Ông Hội đồng mong có thêm được đứa con trai nữa nên ngày đêm khấn nguyện ơn trên phò hộ. Trước ngày Lan hạ sinh, ông hí hửng vui mừng bao nhiêu, thì sau đó ông lại bực tức bấy nhiều và đổ hết mọi tức giận ấy lên đầu Lan và đứa con gái nhỏ vô tội mới vừa chào đời. Khi đứa con gái của mình vừa tròn tháng, thì ông Hội đồng tuyên bố sẽ cưới vợ ba. Lễ cưới vợ ba được diễn ra long trọng không thua gì lễ cưới bà hai. Rồi một năm sau, một cậu con trai kháu khỉnh chào đời.
Thời gian dần trôi, ba đứa con càng lúc càng lớn không. Cậu hai bị thiệt thòi vì không còn mẹ để yêu thương, nhưng bù lại cậu rất được cha cưng chìu, cho ăn học đến nơi đến chốn. Có thể nói trong gia đình này, cậu hai chỉ dưới có mỗi mình ông Hội đồng. Cô ba dù có mẹ bên cạnh, nhưng không được cha thương, lại thường hay bị cha và má ba đánh đập, làm việc như một con ở, nên cô mang trong lòng ít nhiều tủi hờn, căm giận, lẫn hận thù. Cậu út ngày đêm cứ chơi bời liêu lỏng, nhậu nhẹt, gái gú, cờ bạc, không thiếu món nào, nên cũng chẳng được ông Hội đồng quan tâm cho lắm. Cậu hai học cao hiểu rộng, mưu mô xảo quyệt, lúc nào mặt cũng nhân từ, nói những lời nhân nghĩa, ai gặp cậu cũng yêu mến vì cái vẻ bề ngoài ấy, nhưng thực chất bên trong, cậu là một con người hoàn toàn trái ngược. Dần dà cậu thâu tóm hết quyền lực, thay cha cai quản tất cả mọi thứ từ nhỏ đến lớn. Ông Hội đồng ngày càng lớn tuổi, già yếu, không còn cai quản gia đình được nữa nên cậu hai đã một mình thao túng. Một hôm cậu bàn với cha:
-Thưa tía, con thấy hai em cũng đã lớn. Cô ba là con gái sớm muộn gì cũng sẽ lấy chồng. Chú tư thì không lo làm ăn gì hết, tối ngày chỉ biết ăn chơi. Nên con định bàn với tía cho họ ra riêng để họ tự chăm sóc mình vậy.
-Không được con à, dầu gì thì tụi nó cũng là em con, và hai má dù không sinh đẻ ra con, nhưng là vợ của ba, thì cũng coi như là má của con rồi. Tía muốn tất cả chúng ta đều ở chung một mái nhà, con hiểu không.
-Dạ con hiểu rồi

Dù vậy, cậu hai vẫn âm thầm tìm cách đuổi cô ba và cậu út ra khỏi căn nhà này. Với cô ba thì dễ, chỉ cần kiếm một mối nào đó tạm được gả đi là có thể tống cổ ra khỏi nhà. Đối với cậu tư thì hơi khó dù gì thì hắn cũng là con trai mà, cưới vợ thì hắn cũng vẫn ở đây chớ có đi đâu. Bày mưu tính kế với tay chân thuộc hạ, cuối cùng kế hoạch của cậu hai cũng thực hiện được bằng cách gả cô ba qua Tổng kế bên, và đẩy bà hai theo con gái. Cậu tư thì bị bắt do ấu đả với người ta rồi gây ra thương tích. Cậu tư bị bắt là nằm trong kế hoạch của cậu hai khi cho người sanh sự và đánh nhau với cậu tư khi cậu ấy sai rượu rồi kêu lính bắt. Ông Hội đồng không lâu sau đó đã qua đời, sau đám tang, cậu hai tống cổ cái gai trong mắt của mình là bà ba ra khỏi nhà dù biết rằng bà ấy sẽ không có nơi để mà đi, và phải sống kiếp ăn mày, nhưng đó chính là cái ý của cậu ta mà.
Còn số phận của bà hai thì có vẻ an nhàn hơn vì theo cô con gái, và được bên nhà chồng của cô ba thương tình cất cho một cái chòi để ở trong khu vườn nhà họ. Nhưng cuộc sống cũng bạc bẽo chán chường vì sui gia coi khinh, hằng ngày lại phải chứng kiến con gái của mình bị đày đoạ như là con ở. Hồi còn con gái đã khổ, bây giờ lấy chồng lại càng khổ hơn. Bên nhà chồng cũng có người ăn kẻ ở, nhưng cô ba trong mắt họ không phải là con dâu mà là một kẻ ở, một cái máy đẻ do họ bỏ tiền mua về. Thực chất đây chính là ý đồ của cậu hai, và cậu hai đã ra tiền để mướn nhà chồng cô ba hành hạ cô em gái cùng cha khác mẹ với mình.
Cậu tư sau thời gian ở tù vô cớ cũng đã được thả. Cậu về đến nhà thì cậu hai ra đón, nước mắt giọt ngắn, giọt dài:
-Sau khi em bị bắt, Tía nhớ em lung lắm đa. Bao ngày nhớ nhung, Tía sanh bệnh, rồi mất. Anh hai cũng nhớ em lung lắm. Hôm nay em về là tốt rồi, ở đây với anh hai, anh em mình sẽ đùm bọc lẫn nhau.
-Má em đâu rồi anh hai?
-Tía mất, Dì Ba buồn quá bỏ đi. Hôm sau anh mới hay tin và đã cho người đi tìm khắp nơi nhưng không thấy. Cho đến hôm nay cũng vẫn không tin tức gì. Anh hai lo lung lắm đa.
Cậu hai với khuôn mặt hiền từ, ăn nói nhỏ nhẹ, lời lẻ chí lý, biết trên biết dưới, đối xử tốt với gia nhân, cùng những giọt nước mắt cá sấu đã lừa biết bao người, ngay cả kẻ thân cận nhất của cậu ta cũng tin cậu ta là một con người rất rất tốt.

Vài tháng sau khi ra tù, cậu tư được một người bí mật, bịt kín mặt cho biết sự thật tất cả mọi chuyện. Anh ôm hận trong lòng và bỏ đi tìm Mẹ. Trước khi đi, anh ghé thăm chị ba của mình và cũng để nói lời từ giã. Hai chị em ôm nhau khóc nức nở. Trong cái nhà này, có lẻ cô ba và cậu tư là đối với nhau bằng cái lòng chân thật, vì cả hai cùng chung cảnh ngộ chăng??? Sau thời gian đi tìm mẹ không thấy, cậu tư quay về chốn cũ, nhưng sống ẩn dật ở một Tổng kế bên, rồi thành lập gia thất với con gái của một ông quan trong Tổng. Do chí thú làm ăn, cộng với tài sản mà cha vợ chia cho, cậu tư cũng đã tạo dựng một cơ ngơi vững chắc cho mình và cho con cái sau này.

Cô ba sau nhiều năm bị đày đoạ, hành hạ bởi chính gia đình của mình cũng như gia đình chồng, đã trở nên chai lỳ và thủ đoạn. Cô đã nhiều lần âm mưu đoạt mạng cha mẹ chồng nhưng bất thành. Lần này với sự trợ giúp của bà hai, cô đã bỏ thuốc độc vào thức ăn tối của gia đình chồng, và đã một lần đoạt mạng tất cả: cha mẹ, chồng, anh chị em chồng, và các cháu chồng. Và lẻ dĩ nhiên là hai thằng con trai của cô ba là những nhân vật ngoại lệ trong cuộc sát hại gia đình này. Cả gia đình chồng bị trúng độc thức ăn qua đời, nhưng không ai nghi ngờ cô ba vì ai ai cũng biết tuy là dâu con nhưng thân phận của cô cũng như người ăn kẻ ở trong gia đình này, chỉ được ăn thức ăn của kẻ ở đợ chớ đâu được ăn cùng mâm với gia đình chồng. Và đó cũng là kẻ hở để cô ba ra tay mà không một ai nghi ngờ.
Sau khi đoạt mạng cả gia đình chồng, cô ba đương nhiên trở thành người thừa kế hợp pháp cái gia sản của nhà chồng. Cô bắt đầu tạo thế lực để đối phó với cậu hai hầu đoạt hết gia sản của ông Hội đồng mà cô cho đó là phần của cô. Nhiều lần cô đề nghị cậu tư hợp tác, nhưng cậu tư đã thẳng thừng từ chối:
-Em à, chị ba thương em lung lắm đa. Thấy em cực khổ như vầy, chị thương lắm. Cái gia sản của Tía để lại cũng chính là gia sản của chị em mình. Hắn đã dùng thủ đoạn để cướp hết, giờ đây chị em mình phải lấy lại đó đa.
-Chị ba có biết không, cái gì của mình nó sẽ là của mình. Dùng thủ đoạn cướp đoạt rồi thì cũng sẽ tan biến thôi. Bây giờ chị đã thừa hưởng tài sản của gia đình chồng, thì chị lo làm ăn để khuếch trương nó lên, lo lắng cho Dì Hai, và cho con cái chị ăn học thành tài. Phần em thì cũng yên ổn với những gì bên vợ tạo dựng cho cùng với sự làm việc cần cù của em, nên cuộc sống cũng khá giả chị ạ. Đối với em như vậy là đủ rồi. Bây giờ em chỉ cầu xin ơn trên cho em một mụn con thôi vì chúng em lập gia đình đã lâu mà đến nay vẫn chưa được đứa nào.
-Thì thôi, tuỳ em vậy. Nhưng chị nói cho em biết, chị sẽ quyết tâm lấy lại tài sản ấy. Em không muốn thì cứ ngồi yên đó, đừng xen vô chuyện của chị nghe chưa.
-Chị muốn làm gì thì làm đi. Em không quan tâm.
****

Thời gian lặng lẻ trôi qua. Sau nhiều lần đối đầu, cô ba cũng chẳng làm gì được cậu hai, lại còn bị cậu hai trả đủa gay gắt. Cô ba đành ôm hận nằm êm chờ thời cơ. Ấy vậy mà cũng đã hơn mười năm rồi, con cái cũng đã trưởng thành. Giờ đây mối hận năm xưa cô phải truyền lại cho con cái để chúng rửa hận cho mình. Nghĩ vậy nên ngày ngày cô luôn tiêm nhiễm vào đầu chúng mối hận thù phải rửa. Bày cho chúng những mưu kế quỷ quyệt để hại cậu và anh em họ của mình. Nhưng những đứa con của cô cũng như của cậu hai đều không có tâm địa ác độc như cha mẹ chúng, cho nên chúng đã không làm theo những gì mà cha mẹ chúng sắp đặt. Mà chúng còn hợp lực với nhau để hoá giải mối hận thù trong gia đình, để tất cả mọi người sống với nhau chan hoà, yêu thương, và hạnh phúc.

Thật ra, sau khi ở tù về, và biết Mẹ mình đã bị anh trai đuổi ra khỏi nhà, cậu tư giận lắm, đi tìm mẹ mà trong lòng luôn nuôi ý trả thù. Chàng hận tía, hận anh trai, hận đời, hận tất cả. Nhưng sau năm tháng đi tìm mẹ không thấy, chàng đành quay về quê cũ. Không lâu sau đó, chàng bất ngờ gặp mẹ mình lang thang ở bến chợ. Thì ra mẹ chỉ ở cạnh đây chớ không đi đâu xa hết. Hai mẹ con đoàn tụ trong mừng mừng tủi tủi cùng những giọt nước mắt lăn tròn. Gặp lại mẹ, chàng cũng vẫn nuôi ý định trả thù, nhưng nhờ có lời khuyên của mẹ, của vợ, và gia đình vợ, dần dà chàng đã nguôi ngoai và quyết định không nghĩ đến chuyện thù hằn nữa. Chàng chí thú làm ăn để tạo dựng cơ ngơi và sốngcuộc đời êm ả. Tuy nhiên Đạt và Hạnh cưới nhau đã hơn năm năm trời mà vẫn chưa có một mụn con nào. Ngày Mười Bốn, Rằm, Ba Mươi, Mùng Một hai vợ chồng đều viếng lễ chùa để cầu xin con cái, nghe thầy bà nào hay, hai vợ chồng cũng đều đến tìm hiểu chữa trị, mà vẫn không chút động đậy nào. Buồn lắm nhưng không biết phải làm sao. Và hôm nay cũng vậy, hôm nay là Rằm tháng Giêng, một trong những Rằm lớn trong năm, hai vợ chồng tư Đạt đi viếng lễ chùa cũng không ngoài mục đích cầu con.

Nơi đây có lẻ là vùng đất ấm áp và dễ sống nên cô năm Huệ, tên của cô gái bán dạo dưới sông, quyết định dừng chân một thời gian dài. Những khi mưa gió dầm dề là những lúc cô buôn bán đắt hàng nhất vì các bà nội trợ ngại ra chợ. Nhưng khi đêm về, cô bỗng thấy mình cô đơn chi lạ. Ngoài trời mưa gió, trên lộ bùn lầy, nhà nhà đóng cửa tối om. Những ngọn đèn dầu hắt ra ánh sáng yếu ớt qua khe cửa, những tiếng côn trùng rên rỉ, càng làm cho cô cảm thấy cô đơn hơn, buồn chán hơn. Những đêm như vậy, cô thường thu mình trong một góc ghe và mơ ước một mái ấm gia đình, mơ ước một bờ vai vững chắc để cô có thể tựa đầu vào. Sau những đêm dài trăn trở trong chiếc ghe nhỏ chòng chềnh bên ngọn đèn dầu trứng vịt loe loét dưới những cơn mưa nặng hạt, cô quyết định tìm một chổ nương thân chốn này. Nhưng tìm lựa, chọn lọc mãi cũng chẳng được ai. Những người bằng tuổi cô đều đã có gia đình, con cái, những chàng trai trẻ hơn thì không xứng với cô. Quanh đi quẩn lại, cô thấy chỉ có Tư Đạt là chổ tốt nhất để gởi gấm tấm thân này. Từ suy nghĩ ấy, cô quyết định tìm cách gần gũi Tư Đạt. Và sau nhiều lần đem hàng lên bán, cô đã có cơ hội để chiếm lấy trái tim anh Tư Đạt vào một buổi trưa hè khi vợ anh đi lễ chùa vắng nhà.

Sự đời lắm lúc oái oăm, Tư Đạt thành hôn đã nhiều năm mà không có con, và hôm nay, qua sự thành khẩn cầu xin của cả hai vợ chồng, vợ anh cuối cùng đã báo một tin vui vào một buổi chiều đẹp trời sau khi anh Tư đi làm đồng về:
-Anh, em có cái này muốn nói với anh nè.
-Chuyện gì vậy em?
-Anh sắp được làm cha rồi.
-Thiệt hông? Bao lâu rồi?
-Dạ thiệt, mới thôi anh.
-Sao em biết?
-Hôm nay đi chợ, bỗng nhiên em bị ói khi xuống chợ cá. Chị Tám đưa em đến Ông Năm Thinh bắt mạch thì ông ấy cho biết là em đang có mang.
-Ôi! tạ ơn Trời Phật. Cuối cùng rồi con cũng có con.

Niềm vui ấy chưa được bao lâu thì cô nhân tình của anh cũng cho một tin vui:
-Anh yêu.
-Gì em?
-Em có món quà tặng anh nè.
-Quà gì?
-Món quà mà anh mơ ước bấy lâu đó.
-Là quà gì?
-Món quà mà vợ anh không thể cho anh được đó.
-Là quà gì nói lẹ lẹ đi, anh còn phải đi về nữa.
-Anh không được bỏ em đâu à nha.
-Em à! anh đã có gia đình rồi. Gia đinh mới là quan trọng đối với anh.
-Thế còn em là gì? Em không quan trọng à?
-Nhưng như vậy thì thiệt thòi cho vợ anh lắm. Anh có lỗi với cô ấy.
-Thiệt thòi cho vợ anh, rồi có thiệt thòi cho em không? Bộ anh không có lỗi với em à?
-Chúng ta dẫu sao cũng đã sai rồi, hãy dừng lại đi em, trước khi quá muộn.
-Bây giờ muộn rồi anh à!
-Là sao?
-Vì em đã có con với anh.
-Em nói láo!!
-Không tin thì anh cứ chờ xem. Hay là ngày mai anh đưa em đi bắt mạch đi sẽ biết.
Không nói thêm lời nào, Tư Đạt quầy quả bỏ về, mặc cho cô nhân tình tức tối kêu la om sòm.

Ngày hôm sau Tư Đạt đưa cô người yêu của mình đi bắt mạch thì được thầy cho biết là đã mang thai được vài tuần. Nghe xong, Tư Đạt bỗng tối sầm mặt mũi, nghe như sét đánh ngang tai. Sau nhiều năm cầu khẩn, bỗng nhiên hôm nay anh lại có hai đứa con chỉ cách nhau non một tháng với hai người đàn bà khác nhau.
Sao mà oái oăm thế. Mình đã sống với vợ ngần ấy năm giờ mới được mụn con, còn cô ta mới chỉ có vài lần qua lại, vậy mà đã đậu rồi. Giờ biết tính làm sao. Phải chi, phải chi... Tư Đạt lẩm bẩm một mình, suy nghĩ nát cả óc, mà vẫn không tìm ra giải pháp nào. Còn Huệ thì càng lúc càng đeo chặt hơn. Cô ta có thể thổ lộ tình cảm ở bất cứ nơi đâu mà không biết ngượng. Hàng xóm đã nhiều lần chứng kiến, và cuối cùng sự việc cũng đến tai vợ Tư Đạt. Tức mình cô mang cái bụng bầu đến gặp Huệ để nói cho ra lẻ:
-Nè cô, anh Tư đã có vợ và bây giờ sắp có con. Tôi khuyên cô đừng nên qua lại với ảnh nữa.
-Chị lấy quyền gì mà cấm tui?
-Lấy quyền làm vợ của ảnh..
-Tui cũng là vợ của ảnh nè, và còn mang giọt máu của ảnh nữa.
-Cô nói sao? Cái thai này là của anh Tư à?
-Vậy chớ của ai!!
-Cô ăn ở với ai mang bầu rồi đổ cho anh Tư à. Ngay bây giờ, tôi muốn cô rời khỏi nơi đây ngay lập tức. Nếu không thì sẽ biết tay tôi.
-Chị doạ tui đó à! Con này là thứ trôi sông lạc chợ, thứ gì cũng đã từng gặp, tui không sợ đâu. Chị có giỏi thì làm gì được tui.
Vợ Tư Đạt tức quá xông vào định tát cho Huệ một bạt tay, ai dè bị Huệ giữ chặt tay và xô chị Tư Đạt té xuống đất. Mấy ngày sau, Huệ còn ngang nhiên xông vào nhà anh chị Tư Đạt và nói rằng đây là nhà của mình làm chị Tư tức điên người nhưng không làm gì được vì Huệ quá hung dữ. Huệ càng lúc càng ngang ngược, thường xuyên đến nhà quậy phá chị Tư mỗi khi anh vắng nhà. Rồi một hôm, hai người đàn bà ấu đả nhau, Huệ xô chị Tư ngã trúng cạnh bộ ván gõ té nhào xuống đất, xong bình thản bỏ ra về. Chị Tư bị đau quá, ráng bò ra ngoài gọi hàng xóm, cũng may có người đi qua nên kịp thời mang chị đi bệnh viện. Cô con gái kháo khỉnh đã chào đời, và chị Tư đã trút hơi thở cuối cùng. Ngay sau khi vừa chôn cất chị Tư xong, Huệ ngang nhiên dọn vào nhà của anh Tư ở. Bà con lối xóm xì xầm bàn tán liền bị Huệ chửi cho một trận. Huệ dữ quá, thêm anh Tư có phần nhu nhược nên bà con lối xóm bỏ mặc, không ai bàn ra tán vào nữa. Anh Tư thì trở nên bệ rạc, bạc nhược sau khi vợ mất. Vì không muốn sống chung với Huệ, và cũng không muốn đuổi Huệ ra khỏi nhà vì nàng mang con của mình, hơn nữa anh Tư cũng cần có người chăm sóc bé Ân, nên anh cứ bỏ nhà đi nhậu từ sáng sớm đến tối mịt. Ngày nào anh cũng say sỉn, té bờ, té bụi, không màng chăm sóc đến đứa con gái vừa mới đầy tháng của mình.
Ban đầu vì bé Hồng Ân còn nhỏ, vả lại muốn lấy lòng Tư Đạt nên Huệ chịu khó thức khuya dậy sớm chăm sóc dỗ về bé, nhưng từ khi Huệ sinh bé Phượng thì sự chăm sóc chu đáo cho bé Ân không còn nữa. Hai bé gái càng lúc càng lớn theo thời gian. Ân mới học đến lớp năm đã bị bà Huệ bắt thôi học. Ân năn nỉ xin cha nhưng tư Đạt nhu nhược không dám cãi lời Huệ, và trốn tránh trách nhiệm bằng cách bỏ đi nhậu.

Tư Đạt càng lúc càng bê tha, bệ rạc, hết nhậu lại cờ bạc, bỏ mặc công việc nhà cửa ruộng vườn cho Huệ. Bé Ân hàng ngày bị bà Huệ hành hạ, đánh đập, làm việc cực nhọc, ngủ nhà kho, ăn không no, áo quần không có mặc, ngược lại bé Phượng thì có được đầy đủ vật chất, được học hành lẫn sự yêu thương của mẹ. Những điều này đã làm cho bé Ân căm thù mẹ ghẻ lẫn em gái của mình. 

Hai mươi năm trôi qua, từ khi biết chuyện, Ân chẳng có một ngày sung sướng và hạnh phúc. Từ tờ mờ sáng đã phải dậy lo việc bếp núc, heo gà vịt, rồi ra đồng ra rẫy, làm lụng vất vả cho đến khi tối mịt, lại còn bị bà Huệ hành hạ, chửi bới, đánh đập. Có khi bà Huệ còn lôi cả má Ân ra để chửi. Còn ông tư Đạt, sau một lần nhậu say đã xảy ra tranh chấp và đánh lộn với đám thanh niên ở xứ khác, đã qua đời, do bị bọn chúng đánh hội đồng rồi thả trôi sông. Từ đó Ân càng đau khổ hơn, và mối thù trong lòng càng lúc càng lớn hơn sau mỗi lần bị bà Huệ đay nghiến. Cái câu mà ông bà xưa để lại: "mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi má lót lá mà nằm" rất đúng trong trường hợp của Ân.

Ân và Phượng đều lớn nhanh theo thời gian, và hai chị em trở thành tâm điểm của đám trai làng vì sắc đẹp, vì sự giỏi giang. Phượng được mẹ cho lên thành thị để tiếp tục công việc học hành, trong khi Ân vẫn phải đầu tắt mặt tối gánh vác mọi việc từ lớn đến nhỏ trong gia đình. Không những thế, Ân vẫn còn phải cắn răng chịu đựng những trận đòn vô cớ từ bà mẹ ghẻ quái ác kia. Ngày hè năm ấy, Phượng về quê nghĩ hè, vài hôm sau có một chàng trai khôi ngô tuấn tú cỡi trên chiếc Dream II đến tìm Phượng. Bà Huệ thấy chàng trai sang trọng, khoái chí, tươi cười híp cả mắt:
-Mời cháu vào nhà chơi. Cháu đến tìm bé Phượng à?
-Dạ, có Phượng ở nhà không Bác?
-Có, em nó đang ở trong buồng. Cháu là gì của Phượng?
-Dạ cháu là bạn học của Phượng.
-Ồ, nhà cháu ở thị xã à?
-Dạ, gia đình cháu có công ty vật liệu xây dựng và trang trí nội thất, và Ba cháu là Tổng giám đốc.
-Vậy hả. Vậy chắc mai mốt cháu nối nghiệp cha.
-Dạ, Ba cháu muốn vậy.

Nghe tiếng ồn ở ngoài, Phượng đi ra và bất ngờ khi gặp Nhân ở đây:
-Ủa, anh đến hồi nào vậy?
-À anh đến nãy giờ rồi. Nãy giờ anh trò chuyện với Bác gái đây. Bác vui tính ghê.
-Sao anh biết nhà em mà tìm hay vậy?
-Thì anh hỏi thăm. Ở tỉnh đường phố mênh mông anh còn tìm ra, huống hồ ở đây. Chỉ cần biết em chở địa phương nào thì anh đến và hỏi thăm thì ra thôi. Đường đi trong miệng mình mà em.
-Trai tỉnh có khác. Lanh lợi và lịch thiệp, không như đám trai làng ở đây, quê mùa cục mịch lại thích nhậu-Bà Huệ chen vào.
-Thôi cháu ở đây chơi nói chuyện với Phượng, để Bác vào bếp nấu mấy món mời cháu ở lại dùng cơm với gia đình Bác cho vui.
-Dạ cháu cám ơn Bác.

Sau khi bà Huệ xuống bếp, Nhân nhìn lên bàn thờ và tò mò hỏi Phượng:
-Người đàn ông bên phải là Ba em phải không?
-Dạ đúng rồi anh.
-Còn người đàn bà bên trái là ai vậy?
-Ồ đó là mẹ của chị Hồng Ân. Em và chị Hồng Ân là chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ chị ấy mất sau khi sinh ra chị ấy.
-Vậy hả. Sao hồi đó giờ hổng nghe em nói?
-Tại anh hỏng hỏi, nên em hỏng nói thôi.

Không bao lâu sau thì cơm nước đã xong. Sau đó bà Huệ mời Nhân và cô con gái rượu ăn cơm trưa ở nhà sau. Đang giữa bửa thì Hồng Ân về, quần áo lâm lem lấm luốc. Thấy chị về Phượng mừng lắm, vì Phượng lúc nào cũng thương yêu và che chở cho Hồng Ân mỗi khi chị ấy bị mẹ đánh đòn từ hồi còn bé tí. Phượng chạy lại nắm lấy tay Ân và giới thiệu:
-Chị, đây là anh Nhân, bạn học của em ở trên tỉnh.-Quay sang Nhân, Phượng nói: Anh, đây là chị Hồng Ân mà em nhắc với anh đó.

Hồng Ân và Nhân chào nhau. Bà Huệ thấy có Nhân làm bộ giả lả hỏi han công việc của Ân hôm nay và kêu ngồi xuống ăn cơm chung. Ân thì còn lạ gì tính của bà dì ghẻ nên đã viện lý do quần áo dơ, đi tắm để từ chối. Ngay vừa sau khi Nhân về, bà Huệ liền vào phòng Hồng Ân và nói:
-Con tao nó là lá ngọc cành vàng, nên nó mới được con trai nhà giàu trên tỉnh thường. Còn mầy là thứ mồ côi, nghèo hèn, thất học, đen đúa, đừng có hòng mà lấy chồng giàu. Mầy có nước mà lấy mấy cái thằng quê mùa cục mịch, nát rượu như thằng cha của mầy, và nghèo suốt kiếp.
-Chuyện đó thì sau này hãy tính đi hé. Bây giờ con cần nghĩ ngơi, mời dì đi ra khỏi phòng con, làm ơn.

Sau đoạn đối thoại đó, Ân quyết tâm trả thù. Thật ra Ân đã có tâm trả thù ngay từ lúc còn bé, sau khi bị bà dì ghẻ đuổi ra khỏi nhà trong đêm mưa gió, nhưng lúc đó chỉ là tâm tư của một đứa con nít bị đánh đập, hất hủi, chớ không trào dâng với những mưu mô tính toán như hôm nay. Và kế hoạch đầu tiên là bằng mọi giá Ân phải cướp đi Nhân trên tay của đứa em gái luôn thương yêu mình. Ngày kia, khi Ân vừa về tới nhà từ ruộng, thì bị bà dì ghẻ đứng sau cánh cửa vô cớ giơ tay tát vào mặt Ân. Nhưng Ân đã nhanh tay và chộp lấy cánh tay bà dì ghẻ gằn từng tiếng:
-Tôi bây giờ chớ không phải là con bé Ân ngày xưa đâu nhé. Bà đừng có hòng mà bắt nạt tôi nữa, coi chừng tôi sẽ cho bà biết tay đó.
Vừa nói dứt lời thì Ân nghe tiếng xe của Nhân ở ngoài ngỏ, bèn giả đò quỳ xuống năn nỉ khóc lóc. Bà Huệ tưởng con bé biết sợ liền lớn tiếng chửi mắng, nắm đầu, ghịt tóc, và tát vào mặt Ân lia lịa khiến máu mũi và miệng chảy ra. Vừa lúc Nhân vào đến chứng kiến toàn bộ sự việc. Bà Huệ có lời giải thích nhưng Nhân không tin và dìu Ân ra xe để đưa đi trạm xá. Hai người đi rồi, bà Huệ mới biết rằng mình bị mắc mưu, nhưng đã muộn. Về phần Ân, thì nàng cho đây là cơ hội quý giá để nàng chiếm đoạt Nhân từ tay của em gái mình. Vì vậy sau khi rời trạm xá, Ân đã năn nỉ Nhân để được lên tỉnh chơi:
-Anh Nhân, hồi nào giờ em chưa có dịp đi ra tỉnh, chỉ lẩn quẩn ở cái xó xỉnh này, hôm nay, sẵn có dịp, anh chở em một vòng ra tỉnh chơi nha.
-Nhưng mà từ đây lên đó hơn mười cây số lận, xa lắm, rồi về nhà tối, dì em lại mắng và đánh em nữa thì sao.
-Không sao đâu anh, dù có bị dì đánh em cũng mãn nguyện vì đã được ra tỉnh chơi.
Năn nỉ một hồi thì Nhân siêu lòng và đồng ý chở đi. Lên tỉnh Nhân đưa Ân đi lòng vòng khắp nơi cho biết, rồi ăn uống. Đi chơi một lúc đến hơn mười giờ đêm, Nhân ngại đường về quê tối tăm, nguy hiểm nên đã gợi ý mướn phòng trọ để Ân ở lại qua đêm. Ân thì muốn về nhà Nhân vì lúc chiều đã ghé qua thấy được căn biệt thự đồ sộ nguy nga. Và ý muốn chiếm đoạt càng mãnh liệt hơn. Nhưng Nhân đã từ chối vì không thể đưa Ân về nhà được. Cuối cùng thì Ân cũng đồng ý ở lại phòng trọ qua đêm.

Bằng những thủ đoạn gian xảo nhất, nàng đã dần trở thành mợ Hai của một gia đình giàu có. Nhưng bà mẹ chồng thì cũng chanh chua chát khế không khác gì bà dì ghẻ ở quê. Ngay từ lúc đầu gặp mặt, bà đã không hài lòng về cô con dâu tương lai quê mùa dốt nát, và lại nghèo kiết xác này, nhưng vì chìu lòng con trai, và cũng vì cái mặt mũi của gia đình nên bà cố nén lòng đồng ý. Bà đã nhiều lần nhắc với cô con dâu nhà quê rằng: muốn thật sự trở thành mợ hai của nhà này, thì cô phải sinh cho tôi một đứa cháu trai để nó nối dõi tông đường, còn bằng không thì tôi sẽ cưới vợ khác xứng đáng với con trai tôi hơn cô cho nó. Tôi cho cô thời hạn một năm.

Những lời cay nghiệt của bà mẹ chồng hằng ngày cứ ẩn hiện trong đầu Ân càng làm cho dã tâm của nàng dâng cao mãnh liệt hơn. Vì mặt mũi nhà chồng, do đó nàng cũng được cho chưng diện, tập lái xe gắn máy, và được chồng mua cho một chiếc xe Honda để đi đây đó cũng như tiện về quê thăm nhà. Những lần về quê, nàng luôn tỏ ra mình là một người giàu có, được nhà chồng thương yêu, và luôn có những thái đổ để chọc tức bà dì ghẻ, càng làm cho bà ấy tức điên lên. Trong một lần đôi co cự cãi, bà dì ghẻ đưa tay định tát vào mặt Ân, nhưng nàng đã nhanh tay hơn, chụp lấy tay bà và xô bà ngã xuống đất. Sự xô xát ấy đã cướp đi sinh mạng bà dì ghẻ của Ân vì miếng ván dưới đất có cây đinh to đã ghim vào đầu bà. Ân nhìn thấy nhưng không chút hoảng hốt, mà lạnh lùng bỏ đi. Nàng ra mộ song thân và nói với hai người rằng nàng đã trả được thù.
Về làm dâu không bao lâu sau thì nàng mang thai. Cả gia đình chồng vui mừng hớn hở, và bản thân Ân cũng vậy. Nàng nghĩ cuộc đời mình sẽ sang trang từ đây. Gia đình chồng hết mực thương yêu nàng. Bà mẹ chồng không còn cay đắng với nàng nữa, mà luôn tỏ ra ngọt ngào thương yêu. Từ nhỏ đến giờ, nàng chưa bao giờ được yêu thương, nên nàng rất cảm động và trân quý những tình cảm ấy. Nhưng nàng lại nghĩ rằng, tất cả chỉ là giả dối mà thôi, vì nếu lỡ thay nhi trong bụng là gái, thì mọi thứ sẽ lật ngược trở lại, và nàng sẽ trở về như những ngày đầu mới bước chân vô cái gia đình này. Chính vì thế, bằng mọi giá nàng phải có con trai. Khi thai nhi đã đủ để có thể biết là trai hay gái, nàng đã một mình đi khám và té ngửa khi bác sĩ cho biết thai nhi trong bụng là gái. Ân đau buồn than trách cho số phận của mình. Không thể để mất đi những gì mình đang có được, nàng bắt đầu giở những thủ đoạn với gia đình chồng. Do thường xuyên đi khám thai, và cũng do chồng luôn bận rộn với công việc cùng ba chồng, còn bà mẹ chồng thì thường xuyên vắng nhà đi cờ bạc, cho nên nàng đã có nhiều thời gian, cơ hội để bày mưu tính kế cho tương lai của mình. Rồi ngày giờ sinh nở cũng đã đến, nhưng gia đình chồng không hề hay biết, vì nàng đã báo sai thời gian, nàng mới bàn với chồng đưa ba mẹ về quê để tảo mộ ông bà vì cũng cận ngày Tết, còn nàng ở lại trông chừng nhà cửa. Gia đình chồng thấy có lý, bèn lên kế hoạch về quê theo ngày con dâu đưa ra. Buổi trưa ngày gia đình về quê, cũng là lúc nàng chuyển bụng và sinh con. Một đứa bé gái kháo khỉnh, nhưng nàng đã nhẫn tâm tráo nó để mang về một bé trai. Vì lợi ích cá nhân, nàng đã vứt bỏ giọt máu của mình cho người xa lạ. Về phần gia đình chồng thì khỏi phải nói, họ vui mừng hơn cả trúng số độc đắc, đứa cháu trai là báu vật số một trong gia đình, thì nàng bây giờ cũng là báu vật số 3, dưới con trai họ. Nhưng phàm ở đời, khi đã đạt được tham vọng này, thì người ta lại bày trò để đạt được tham vọng kế tiếp. Hơn nữa, người gian dối bao giờ cũng sống trong lo âu, sợ hãi, và luôn tìm cách để che đậy nó. Đã không ít đêm Ân ngủ mớ nói nhảm những chuyện xấu mà mình đã làm, nhưng khi chồng hỏi thì nàng chối và nói là do xem phim nên nó đi vào giấc ngủ.
Thời gian dần trôi, và đứa con ngày càng lớn lên. Khi đứa bé càng lớn thì cái nét của nó lại không giống một ai trong gia đình. Bà Nội bắt đầu nghi ngờ và âm thầm điều tra. Cuối cùng qua sự khám nghiệm DNA, bà đã phát hiện đứa cháu nội bấy lâu mình yêu thương không phải là giọt máu của gia đình. Bà tức giận về nhà gây gổ với con dâu, và hậu quả là bà đã bị con dâu của mình đoạt mạng. Sau khi giết bà má chồng, Ân bỏ về quê để tạo chứng cớ không ở hiện trường. Nhưng lưới trời lồng lộng đã đưa nàng vào vòng lao lý sau những cuộc điều tra của nhà chức trách.

Bản án mấy mươi năm tù thay cho tử hình do được cha chồng cùng chồng nàng xin ân xá, cũng như sự rộng lượng bỏ qua của đứa em cùng cha khác mẹ về tội danh giết mẹ kế của mình đã làm nàng ăn năng hối hận. Giờ đây nàng rất nhớ đứa con gái của mình, nhưng không biết nó đã lưu lạc nơi đâu dù chồng nàng đã cất công tìm kiếm. Mỗi năm đến dịp Xuân về Tết đến là nàng lại nhớ day dứt đứa con mình đã mang nặng đẻ đau mà đành lòng vứt bỏ để đổi lấy sự giàu sang phú quý mà nàng cũng chẳng được hưởng bao lâu. Và hôm nay cũng vậy, trong bốn bức tường lao lý, nàng trằn trọc nhớ lại những nỗi cơ cực của tuổi thơ, những oán hờn, những mưu toan tính toán, tráo đổi con ruột của mình, và trên tất cả là một kẻ sát nhân lạnh máu. Hôm nay đã là Hai mươi Bảy Tết, mọi người bên ngoài đang vui vẻ chuẩn bị đón mùa Xuân mới, còn nàng trong chốn lao tù này cũng đã thấm thía với cái câu: Mỗi người sinh ra trên cõi đời này đều mang một số phận nghiệt ngả" để từ đó gặm nhấm những lỗi lầm của mình.
Quốc Thai


 XUÂN KHỞI ĐIỂM   
                                   TRẦN QUỐC BẢO 
          Mỗi năm khởi điểm bằng một mùa Xuân
          “Xuân khứ, Xuân lai, Xuân bất tận”, hàng muôn triệu Xuân qua,  chìm vào dĩ vãng.  Rồi hai ngàn năm cận đại cũng lặng lẽ trôi đi.   Mới ngày nào, nhân loại còn e dè trước thềm Đệ tam Thiên niên kỷ;  Thì vụt cái, nay “con tầu nhân loại” đã lướt mình qua 18 vòng “chu kỳ Thái dương hệ” rồi đó!
Và hôm nay, bước qua cái khoảnh khắc “thời gian tích tắc” mong manh nửa đêm Giao thừa, niên kỷ Mậu Tuất vĩnh viễn khép lại sau lưng.  Chúng ta lại đang đứng ở khởi điểm của một mùa Xuân Mới – Tân Xuân KỶ HỢI -
          Xuân đến, Xuân đi, Xuân lại đến … cứ thế, thời gian vùn vụt qua mau … Nhìn thời gian cuồn cuộn trôi đi tựa gió cuốn mây bay, chúng ta thường cảm nhận như khách nhàn du, đứng trên cầu, nhìn xuống dòng sông nước chảy.  Nhưng thật sự, cảm nhận bàng quan ấy không đúng, nó đánh lừa ta, bởi điểm đứng của con người không trên cầu cao; mà chính chúng ta ở trong con thuyền, đang cùng trôi đi với nước. – Trên sông thời gian, loài người đã dùng những con số, để  ghi khắc dòng đời hữu hạn ngắn ngủi của mình, trong cái miên viễn vô cùng của Tạo Hóa.
          “Tân Xuân KỶ HỢI” lại thêm một mùa Xuân Tha hương về, với nặng chĩu ưu tư trong lòng người vong quốc.  - Nhưng dù ở hoàn cảnh nào, thì ngày Đầu Xuân, cũng vẫn là khởi điểm của Giai đoạn Mới ; Một Hành trình Mới mà chúng ta sắp phải vượt qua.
          Xin hãy hình dung “mỗi Năm” như một “cột-lô-mét” (kilomètre) có ghi niên kỷ mỗi năm, cạnh đường rầy xe lửa; Chúng ta, đoàn lữ hành trên xe, thường mang chung cảm tưởng, mình luôn luôn đứng yên tại chỗ; để mỗi lần chợt thấy “cột-lô-mét” vùn vụt chạy lùi lại sau, thì giật mình hiểu rằng chúng ta đang phóng tới trước với tốc độ lanh không tưởng, và từ đó, niềm hoài vọng qúa khứ, nỗi băn khoăn tương lai tràn ngập tâm hồn
Xin mời nghe dòng Thơ: Tâm tình cuối năm – của Thi sĩ  Đinh Hùng
Từng cơn mưa lạnh đến dần
Đời chưa trang điểm, mà Xuân đã về
Hững hờ để nước trôi đi
Giấc chiêm bao hết, lấy gì mà say!
Quê ai đầm ấm đâu đây
Cho tôi về sống mấy ngày trẻ thơ
Ứơc gì trăng đón, gió đưa
Mặt chờ gặp mặt, tay chờ cầm tay
Cầm lòng nhận chút hương bay
Tình thương đất bạn, cỏ cây là người
Quê nhà ai sẵn nụ cười
Núi sông hiền hậu, mà trời bao dung
Cho tôi về hưởng Xuân cùng
Bao giờ hoa nở, thì lòng cũng  vui.
(Tâm tình cuối năm – Đinh Hùng)
          Lời thơ của “người xưa” , mà sao từng chữ, từng câu,nghe thiết tha, cay đắng … như lời nói nội tâm của chính mình: … “Đời chưa trang điểm mà Xuân đã về! Hững hờ để nước trôi đi …”  Hỡi ôi! cho tới ngày “mất nước”, lênh đênh phiêu bạt quê người, ta mới nhìn ra và thấu triệt cái ý nghĩa bao hàm của thơ Đinh Hùng – Thi nhân nay đã là “người thiên cổ” nhưng ý thơ,  như lời tiên tri, thật qủa vẫn chứa chan linh động.
“…Cầm lòng nhận chút hương bay, Tình thương đất bạn, cỏ cây là người…” Ở xứ người, ở đất bạn, trước bàn thờ Tổ Quốc. đỉnh trầm ngào ngạt hương bay, nỗi thương nhớ Quê nhà tràn ngập cõi lòng – nơi nào phần mộ Tổ Tiên, nơi nào con đường góc phố, quán làng thân yêu, nay tiêu điều hoang vắng. Niềm hoài hương dẫn ta vào kỷ niệm xa vời, với đình làng cũ, con đò xưa, với cô thôn nữ, mái tranh hiền và dàn thiên lý, dậu mùng tơi …
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã phóng họa bức tranh Quê hương đó bằng Thơ như sau:
Trong làn nắng ửng khói mờ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt, gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý – bóng Xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi, gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi …
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi
Tiềng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của gió mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây
Khách xa gặp lúc mùa Xuân chín
Lòng trí bâng khuâng chợt nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông vắng, nắng chang chang?
(Mùa Xuân chín – Hàn Mặc Tử)
          Từ trong tiềm thức mênh mông, hiển hiện hình ảnh nàng thôn nữ gánh thóc bên bờ sông vắng, hoặc cô gái quê tát nước dưới ánh trăng vàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
(Ca dao)
          Nỗi nhớ thương chồng chất, dào dạt như sóng trùng dương dội vào ghềnh đá, ta muốn vươn rộng hai tay ôm hết kỷ niệm vào lòng – như Hồ Dzếnh,  Thi sĩ thời tiền chiến tha thiết nhắc lại như sau:
Dải lúa cô trồng nay đã tươi,
Gió Xuân ý nhị vít bông cười
Ai hay lòng kẻ từng chăm lúa
Trong một làng con, đã héo rồi!
Cô gái Việt Nam ơi!
Tứ thuở sơ sinh, lận đận rồi
Tôi biết, tình cô u uất lắm!
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi!
Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa
Má hồng mơi tiết, mỗi phôi pha
Khi cô vui thú là cô đã
Bồng bế con thơ, đón tuổi già
Cô gái Việt Nam ơi!
Ngọn gió thời gian đổi hướng rồi
Thế hệ huy hoàng không đủ xóa
Ngàn năm vằng vặc ánh trăng soi
Tôi đến đây tìm lại bóng cô
Trở về đường cũ hái mơ xưa
Rau sam vẫn ,mọc chân rào trước
Son sắt, lòng cô vẫn đợi chờ
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ “hy sinh” có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi!
(Quê Ngoại – Hồ Dzếnh)
         Vâng, tôi muốn nạm vàng những hình ảnh nghèo nàn, khổ cực của cô gái Việt Nam, trên mảnh đất khô cằn sỏi đá, nơi Quê hương tôi. Tôi muốn tôn vinh hình bóng tiêu biểu của người thôn nữ, suốt đời im lặng cần cù, đã dệt nên lịch sử xa xưa của giống nòi tôi. Xin hãy nghe Nguyễn Bính, một Thi sĩ rất mực đa tình kể chuyện xưa:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này
Bướm ơi!, bướm hãy vào đây
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi …
Chả bao giờ thấy nàng cười
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên
Mắt nàng đăm đắm trông lên
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Bỗng dưng, tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn, tự hỏi … Hay tôi yêu nàng?
-Không! … từ ân ái lỡ làng
Tình tôi than lạnh, tro tàn làm sao!
Tơ hong nàng chả cất vào
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhớ mong
Nhớ nàng? – Không! quyết là không nhớ nàng!
Vâng!  Từ ân ái lỡ làng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa
Tầm tầm, trời cứ đổ mưa
Hết hôm nay nữa, là vừa bốn hôm
Cô đơn, buồn lại thêm buồn
Tạnh mưa, bươm bướm hết còn sang chơi
Đêm qua … Nàng đã … chết rồi !
Nghẹn ngào, tôi khóc … qủa tôi yêu nàng!
Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này.
(Người hàng xóm – Nguyễn Bính)
“Nàng” đã chết đêm qua? Ngẫu hứng của “người xưa” khơi lại, trùng hợp hình ảnh cận đại của “Người con gái Việt Nam da vàng”, tan vỡ trong bọt sóng trùng dương. Những xót xa, những ngậm ngùi, sao vương vấn mãi trên Quê hương đau khổ! – Nỗi buồn của người xưa, làm chạnh nhớ bài thơ Xuân, của cố thi sĩ Trần Quốc Thái (Colorado), có nhắc đến hai câu thơ Lý Bạch:
“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
Người xưa buồn thế ấy
Ta nay ôm hận trường!
(thơ Trần Quốc Thái)
          Mối sầu cố hương phải chăng là sầu vạn cổ.  Huyền Kiêu, một thi sĩ thời tiền chiến, uống rượu tiêu sầu, nhìn trăng Xuân mà ngâm:
Thức suốt đêm trường không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vàng trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Trăng mùa Xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu !
(Tương dạ biệt – Huyền Kiêu)
          Chúng ta xa thật rồi!  - Xa Dân tộc, xa Quê hương … Nhưng không xa Tổ Quốc,  vì Tổ Quốc linh thiêng, ở trong lòng chúng ta.  Còn hơi thở, còn tiếng nói, thì ta còn ngưỡng vọng, tôn thờ Tổ Quốc Việt Nam của ta.  Không ai có thể tách rời ta với Tổ Quốc, với Việt Nam yêu qúi ngàn đời trong ta.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã hạ bút viết những lời đắng cay chua xót về Quê hương và thân phận mình như sau:
Ta còn để lại gì không
Kìa non đá lở, này sông cát bồi
Lang thang từ thuở luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trong ta, bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ, dù đục … đừng vương gót này
Để ta trọn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
(Nguyện cầu – Vũ Hoàng Chương)
          Trên con tầu thời gian, chúng ta - đoàn lữ hành Việt Nam di tản – nhìn về quá khứ, đã bao Xuân đi qua trong nhịp điệu lắc lư êm đềm của con tầu. Nhìn ra chung quanh … “Kìa non đá lở, này sông cát bồi” Tự hỏi mình:  Chúng ta sẽ lang thang thế này cho tới bao giờ?  và tới đâu? – chẳng lẽ điểm đến lại là “bến hoặc, bờ mê” ?
          Không! Không thể như thế! – Chúng ta phải giành lấy tay lái, phải hướng con tầu về Tổ Quốc vinh quang. Phải tìm cho ra Con đường hoa mộng vào đời!  nếu chẳng phải đời ta, thì đời con cháu chúng ta.  Nghiã là chúng ta phải trang điểm đẹp cho cuộc đời di tản. Xin đừng để bụi đường làm hoen ố gót chân và tâm hồn người Việt tha hương.
          Một ngày nào đó, không xa: chúng ta, chẳng phải một cách tay, mà hàng trăm triệu cánh tay, đồng bào trong nước, ngoài nước, cùng giơ lên biểu lộ ý chí, quyết một lòng vùng dậy cứu lấy Quê hương -  Ngày ấy sẽ đến và phải đến, đó mới chính thật “Ngày Khởi điểm Mùa Xuân Dân Tộc Việt Nam”
                    Trần Quốc Bảo
                                      Richmond, Virginia
                        Địa chỉ điện thư của Tác Giả:
                           quocbao_30@yahoo.com


Cây me ngàn tuổi
 TRO BỤI   (*)
Hôm nay đáp chuyến Jet Blue
Mượn đôi cánh sắt, vù vù bay lên
Thấy mình đâu phải là tiên
Mà đang êm ái lượn trên vòm trời
Nhìn qua khung cửa bồi hồi
Dưới kia , mù mịt ... núi đồi, biển sông
Con người, quá nhỏ - khó trông
Lên cao ... cao nữa - là không thấy gì
Lan man, thơ thẩn nghĩ suy
Về sinh-vật bé tí ti: “con người
Trí khôn, thiệt quá tuyệt vời!
Từng phen thám hiểm biển trời bao la
Hỏa Tinh, trên cõi thiên hà
Phi thuyền bay tới, thăm qua mấy lần  
Biển sâu, đáy thẳm muôn phần
Tầu ngầm lặn xuống, hải tuần dò la
Văn minh, nhân loại tiến xa
Nhưng tai họa sát bên “ta” rất gần
Con người thật nhẹ đồng cân
Chỉ trong gang tấc, Tử Thần kề bên !
Người” từ tro bụi mà nên   (**)
Một mai rồi cũng về miền “bụi tro
“Thiên tài” là PHÚC, Trời cho
Sống sao, tích ĐỨC mà so với TÀI
Giật mình ... nghĩ tới thân này
Tôi là hạt bụi đang bay ngang Trời !
                               Trần Quốc Bảo
                                Richmond, Virginia
                  Địa chỉ điện thư của Tác Giả:           
                    quocbao_30@yahoo.com
 (*) Ngày 6 tháng 3 sắp tới là ngày Lễ Tro (Ash Wednesday)
(**) “Hãy nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19).